Viên Thiệu Truyện
Viên Thiệu tự Bản Sơ, người huyện Nhữ Dương quận Nhữ Nam. Ông tổ là An, làm quan Tư đồ của nhà Hán. Từ đời An đến bốn đời sau đều nắm vị Tam công, do đó thế nghiêng thiên hạ.
Hán thư của Hoa Kiệu chép: An tự Thiệu Công, ham học lại có oai danh. Vào thời Minh Đế làm Sở quận Thái thú, trị tội của Sở Vương, tự xét xử hơn bốn trăm nhà, đều được cứu giúp, An bèn trở thành danh thần. Vào thời Chương Đế làm đến quan Tư đồ, sinh Thục quận Thái thú là Kinh. Em của Kinh là Xưởng làm Tư không. Con của Kinh là Thang, làm Thái úy. Thang có bốn con trai: con cả là Bình, em của Bình là Thành, làm Tả trung lang tướng, đều chết sớm; em của Thành là Phùng, em của Phùng là Ngôi, đều giữ vị Tam công. Ngụy thư chép: Từ đời An về sau đều rộng lượng thương yêu mọi người, không có kén chọn; tân khách vào nhà mình, không kể hiền ngu đều được như ý mình, cho nên được thiên hạ theo về. Thiệu là con thứ của Phùng, và là anh khác mẹ của Thuật, ra làm con nối dõi của Thành. Anh hùng kí chép: Thành tự Văn Khai, khỏe mạnh có khí hiệp, bọn quý thích cường hào từ Đại tướng quân Lương Kí trở xuống đều kết bạn với Thành, nói ra thì không gì không theo. Cho nên người kinh sư làm câu ngạn là: "Việc chẳng tày, hỏi Văn Khai".
Thiệu có dáng vẻ oai phong, biết nhún nhường kẻ sĩ, cho nên nhiều kẻ sĩ nương về, Thái Tổ thủa trẻ cũng giao du với Thiệu. Từ chức Đại tướng quân duyện làm Thị ngự sử,
Anh hùng kí chép: Thiệu sinh thì vừa lúc cha chết, hai người chú thương Thiệu. Thủa trẻ cho làm Lang, đến tuổi 'nhược quán' thì cử làm Bộc Dương Trưởng, có tiếng tốt. Gặp lúc mẹ mất, để tang xong, lại nghĩ để tang cha, ở tại nhà mồ cả thảy sáu năm. Lễ tang xong, ẩn cư ở Lạc Dương, không tùy tiện qua lại với tân khách, nếu không phải là kẻ nổi danh cả nước thì không gặp nhau. Lại ưa du hiệp, làm bạn rong ruổi với bọn Trương Mạnh Trác, Hà Bá Cầu, Ngô Tử Khanh, Hứa Tử Viễn, Ngũ Đức Du. Không vâng lệnh quan gọi. Trung thường thị Triệu Trung bảo các Hoàng môn rằng: "Viên Bản Sơ ngồi nơi hay đẹp, vậy mà không vâng lệnh gọi lại nuôi dưỡng kẻ đáng tội chết, không biết thằng này muốn làm điều gì đây"? Chú ruột của Thiệu là Ngôi nghe tin, trách mắng Thiệu nói: "Mi sẽ phá nhà ta thôi"! Do đó Thiệu bèn đến vâng lệnh của Đại tướng quân. Thần là Tùng Chi xét: Ngụy thư chép: "Thiệu là con thứ của Phùng, ra làm dòng dõi cho bác ruột là Thành". Như lời mà sách này chép thì như đúng là con mà Thành sinh. Người ta để tang người sinh ra mình, Lễ kí thì không có chép, huống chi là con nuôi mà lại làm lễ như thế! Hai sách chép không rõ ai đúng.
dần dần chuyển làm Trung quân hiệu úy, làm đến Tư lệ hiệu úy.
Linh Đế băng, anh của Thái hậu là Đại tướng quân Hà Tiến cùng Thiệu mưu đánh bọn hoạn quan,
Tục Hán thư chép: Thiệu sai khách là Trương Tân khuyên Tiến rằng: "Bọn quan Hoàng môn-Thường thị nắm quyền lâu ngày, lại nữa Vĩnh Lạc Thái hậu cùng bọn Thường thị chuyên qua lại mưu lợi, tướng quân nên chỉnh đốn thiên hạ, trừ hại giúp đất nước". Tiến cho là phải, bèn kết mưu với Thiệu.
Thái hậu không theo. Tiến bèn gọi Đổng Trác, muốn để ép Thái hậu. Bọn quan Thường thị-Hoàng môn nghe tin, đều đến chỗ Tiến tạ tội, xin vâng theo sắp đặt. Bấy giờ Thiệu khuyên Tiến nên nhân đó mà quyết làm đi, nhưng đến ba lần mà Tiến không nghe, sai Thiệu lệnh những quan võ có mưu lược coi xét bọn hoạn quan. Lại sai em của Thiệu là Hổ bôn trung lang tướng Thuật chọn hai trăm quân hổ bôn ôn hòa vào trong cung, thay các quan Hoàng môn cầm quân giữ nhà cửa. Bọn Trung thường thị Đoàn Khuê giả truyền lệnh của Thái hậu, gọi Tiến vào bàn nghị, rồi giết Tiến, trong cung bèn loạn.
Cửu châu xuân thu chép: Lúc trước Thiệu khuyên Tiến rằng: "Hoàng môn-Thường thị nhiều đời lớn mạnh, oai trùm cả nước, khi trước Đậu Vũ muốn giết chúng mà trái lại bị chúng hại, chỉ là vì nhân lời nói bị tiết lộ mà đem quân của năm doanh gây biến vậy. Quân của năm doanh sinh trưởng ở kinh sư, sợ phục người trong cung, vậy mà họ Đậu trái lại dùng sức mạnh của họ, rút cuộc họ phản chạy theo bọn Hoàng môn, cho nên tự chuốc lấy thua diệt. Nay tướng quân dựa vào sự tôn quý của cậu vua, hai phủ đều nắm quân khỏe, quan tướng bộ khúc của mình đều là kẻ sĩ anh hùng, vui lòng dốc hết sức, việc ở trong lòng bàn tay, cũng là trời cho gặp thời vậy. Nay vì thiên hạ mà trừ diệt tham ô, công lao hiển hách, lưu danh đời sau, dẫu Thân Bá của nhà Chu há đủ để sánh được? Nay nhà vua ở điện trước, tướng quân nên mượn chiếu thư mà lĩnh quân giữ gìn, nhưng chớ vào cung". Tiến nghe lời ấy, sau lại nghi ngờ; Thiệu sợ Tiến đổi ý, ép Tiếp nói: "Nay giao kết đã xong, hình thế đã lộ, tướng quân sao lại không sớm quyết đi? Việc dừng thì sinh biến, họa sẽ đến sau đấy"! Tiến không theo, rút cuộc thua bại.
Thuật đem quân hổ bôn đốt cửa Thanh Tỏa ở điện Gia Đức thuộc nam cung, muốn để ép bọn Khuê chạy ra; bọn Khuê không ra, bắt đế và em của đế là Trần Lưu Vương chạy đến bến Tiểu Bình. Thiệu bèn chém viên Tư lệ hiệu úy là Hứa Tương mà bọn hoạn quan sắp đặt, rồi xua quân bắt bọn hoạn quan, không kể lớn bé đều giết cả. Có kẻ không có râu mà bắt lầm sắp giết, đến lúc tự cởi lộ thân thể mới được tha. Hoạn quan có kẻ tự giữ làm việc thiện mà vẫn bị họa. Thiệu bừa bãi như thế, đến hơn hai nghìn người bị giết. Gấp đuổi bọn Khuê, bọn Khuê đều nhảy xuống sông mà chết. Đế được về cung.
Đổng Trác gọi Thiệu, bàn muốn phế đế, lập Trần Lưu Vương. Bấy giờ chú ruột của Thiệu là Ngôi làm Thái phó, Thiệu bèn giả hứa theo, nói: "Việc lớn này nên ra bàn với Thái phó". Trác nói: "Tông thất họ Lưu không đáng để lập lại". Thiệu không đáp, cầm đao vái chào rồi đi.
Hiến Đế xuân thu chép: Trác muốn phế đế, bảo Thiệu rằng: "Hoàng đế tối tăm, không phải là vua của nước có vạn cỗ xe. Trần Lưu Vương vẫn hơn, nay ta muốn lập hắn. Người ta đã ít khôn thì lớn lên vẫn ngu, cũng biết được ra sao, chỉ biết tạm như thế; khanh không thấy Linh Đế sao? Nghĩ đến thế cũng khiến cho người ta tiếc giận"! Thiệu nói: "Nhà Hán trị thiên hạ hơn bốn trăm năm, ân trạch thấm nhuần, triệu dân theo phục đã lâu. Nay đế dẫu nhỏ dại nhưng chưa có điều không tốt truyền ra thiên hạ. Ngài muốn phế trưởng lập thứ, sợ rằng mọi người không theo lời ngài vậy". Trác bảo Thiệu nói: "Trẻ con! Việc của thiên hạ há chẳng do ta quyết? Nay ta làm việc, ai dám không theo? Ngươi bảo sức của Đổng Trác ta không mạnh sao"! Thiệu nói: "Kẻ mạnh trong thiên hạ, há chỉ có Đổng Công"? Rồi dẫn đao ngang chào mà đi ra. Thần là Tùng Chi cho rằng: Bấy giờ Thiệu chưa gây hiềm khích với Trác nên mới bàn mưu với Trác. Nếu chỉ vì bàn nghị không cùng ý mà bị mắng là 'trẻ con', lại cầm đao vái chào đi ra? Lại nữa lúc Thiệu đáp lại, rất là ngang bướng, vậy mà Trác há nhẫn nhịn mà không gây hại sao? Vả lại như lời ấy của Thiệu, tiến đã chẳng chính đáng, lùi lại trái với đạo khiêm tốn, lại tỏ rõ ý hào sảng để chạm vào răng nhọn của hổ rống, nếu có chí lập công nghiệp thì lí nào như thế? Như lời chép này, rất là xằng bậy vậy.
Thiệu đã ra, rồi trốn đến Kí châu. Bọn Thị trung Chu Bí, Thành môn hiệu úy Ngũ Quỳnh, Nghị lang Hà Ngung đều là kẻ sĩ nổi danh, Trác tin họ nhưng họ ngầm giúp Thiệu, bèn khuyên Trác rằng: "Phế lập là việc lớn, không phải là việc người thường bàn đến. Thiệu không biết việc lớn, sợ hãi mà chạy ra, đấy là chẳng có chí khác vậy. Nay nếu vội bắt hắn thì hắn tất gây biến. Họ Viên tạo ân bốn đời, quan lại tân khách quen biết có khắp ở thiên hạ, nếu họ thu hào kệt để tụ dân chúng thì anh hùng nhân đó mà nổi lên, lúc ấy ngài chẳng có miền Sơn Đông nữa. Không bằng tha cho hắn, bái làm một viên Quận thú, vậy thì Thiệu mừng vì được tha tội, tất chẳng lo nữa". Trác cho là phải, bèn bái Thiệu làm Bột Hải Thái thú, phong làm Kháng hương hầu.
Thiệu liền dấy binh ở quận Bột Hải, sắp đến đánh Trác. Chép tại Vũ Đế kỉ. Thiệu tự hiệu làm Xa kị tướng quân, chủ minh, (1) cùng Kí châu mục là Hàn Phức lập U châu mục là Lưu Ngu làm đế, sai sứ giả đem thư đến chỗ Ngu, Ngu không dám nhận. Sau đó Phức đem quân đến huyện An Bình, bị Công Tôn Toản đánh bại. Toản bèn dẫn quân vào Kí châu, mượn danh là đánh Trác, nhưng trong là muốn đánh úp Phức, do đó Phức mang lòng không tự yên.
Anh hùng kí chép: Phùng Kỉ khuyên Thiệu rằng: "Tướng quân làm việc lớn mà phải trông người ta cấp lương, nếu không chiếm một châu thì không tự giữ được". Thiệu đáp nói: "Kí châu quân mạnh, quân ta lại đói thiếu, nếu chẳng đánh được thì chẳng còn chỗ đứng". Kỉ nói: "Nên qua lại với Công Tôn Toản, sai hắn xuống phía nam đánh lấy Kí châu. Công Tôn Toản đến thì Phức tất sợ, nhân đó nói lợi hại, bày kể họa phúc, Phức tất trao nhường. Ở vào lúc ấy, tất chiếm được chức". Thiệu theo lời ấy, vừa lúc Toản đến.
Gặp lúc Trác sang phía tây vào cửa quan, (2) Thiệu đem quân về Diên Tân, nhân lúc Phức kinh hoảng, bèn sai người quận Trần Lưu là Cao Cán, người quận Dĩnh Xuyên là Tuân Kham đến khuyên Phức rằng: "Công Tôn Toản thừa thắng xuống phía nam mà các quận ứng theo hắn; Viên Xa kị dẫn quân về hướng đông, không biết được ý ngài ra sao? Trộm nghĩ đấy là mối nguy của tướng quân". Phức nói: "Phải làm thế nào"? Kham nói: "Công Tôn Toản dẫn quân Yên-Đại, khí mạnh của hắn khó mà chống nổi. Họ Viên là hào kiệt một thời, tất chẳng chịu đứng dưới tướng quân. Kí châu là nơi của cải đầy nhiều của thiên hạ, nếu hai kẻ kia hợp sức đem quân đánh đến ở dưới thành, lúc ấy chỉ đứng đợi nguy vong vậy. Họ Viên là người quen của tướng quân, lại là đồng minh. Nay bọn ta muốn bày kế giúp tướng quân, chẳng bằng đem Kí châu nhường cho họ Viên. Họ Viên được Kí châu thì Toản không tranh được với họ Viên nữa, họ Viên tất khen đức của tướng quân. Kí châu vào tay người thân quen, lúc ấy tướng quân có tiếng là nhường người hiền, thân mình cũng yên vững như núi Thái Sơn vậy. Mong tướng quân chớ nghi"! Phức vốn khiếp sợ, bèn theo kế ấy. Trưởng sử Cảnh Vũ, Biệt giá Mẫn Thuần, Trị trung Lí Lịch can Phức rằng: "Kí châu dẫu là nơi biên giới, nhưng có trăm vạn quân mặc giáp, thóc đủ cấp mười năm. Viên Thiệu quân cùng thế lẻ, trông vào ta cung cấp, như trẻ con ở trên lòng bàn tay, nếu ngăn dứt mớm bú mà đứng lên giết đi cũng được, sao lại muốn đem cả châu này trao cho hắn"? Phức nói: "Ta là quan thuộc cũ của họ Viên, vả lại tài không bằng Bản Sơ, lượng đức mình mà nhường người, đấy là điều mà người xưa quý trọng, các ông sao còn ngăn trở"! Tòng sự Triệu Phù-Trình Hoán xin đem quân chống Thiệu, Phức lại không nghe. Rồi nhường cho Thiệu,
Cửu châu xuân thu chép: Phức sai Bộ đốc tòng sự Triệu Phù-Trình Hoán đem vạn cây nỏ cứng đi đóng đồn ở bờ bắc sông Hoàng Hà; bọn Phù nghe tin Phức muốn đem Kí châu cho Thiệu, bèn từ bến Mạnh Tân đi nhanh xuống phía đông. Bấy giờ Thiệu còn ở cửa sông Thanh thuộc huyện Triều Ca, bọn Phù từ phía sau đến, đem mấy trăm chiếc thuyền, hơn vạn quân, buổi đêm diễu binh gõ trống đi qua trại của Thiệu, Thiệu rất ghét họ. Bọn Phù đến, bảo Phức rằng: "Viên Bản Sơ quân chẳng còn một đấu lương, đều đã tan rã, dẫu có Trương Dương-Ư Phù La mới theo nhưng chưa chịu giúp sức, không đáng đối địch vậy. Bọn Tòng sự ta xin tự đem quân chống hắn, trong vòng một tuần tất phá vỡ được hắn; tướng quân chỉ cần vào phòng nằm cao gối thôi, sao phải lo sợ"! Phức không theo, bèn nhường chức, ra ở tại nhà cũ của Triệu Trung, sai con đem ấn thao Kí châu mục đến Lê Dương cho Thiệu.
Thiệu bèn lĩnh chức Kí châu mục.
Tòng sự Thư Viện Thư, đọc là 'tư'. khuyên Thiệu rằng: "Tướng quân vào tuổi nhược quán vào chầu, đến nay nêu danh khắp cả nước; kịp đến buổi phế lập thì tỏ rõ trung nghĩa; một ngựa chạy ra thì Đổng Trác lo sợ; vượt sông Hoàng Hà lên phía bắc thì quận Bột Hải cúi đầu; dấy quân của một quận mà nắm được binh của Kí châu, oai lừng miền bắc sông Hoàng Hà, danh lừng ở thiên hạ. Dẫu giặc Khăn vàng gây loạn, giặc Hắc Sơn bạo ngược nhưng nếu xua quân về phía đông thì Thanh châu tất định; lại về đánh giặc Hắc Sơn thì Trương Yến cũng diệt được; rồi dẫn quân lên phía bắc, Công Tôn Toản chắc thua; uy hiếp rợ Nhung-Địch thì người Hung Nô tất theo. Lúc ấy bao trùm miền bắc sông Hoàng Hà, hợp lấy đất của bốn châu, thu nạp bọn anh hùng, phát trăm vạn quân sĩ mà đón nhà vua ở tây kinh, dựng lại tông miếu ở Lạc Dương, hiệu lệnh thiên hạ để đánh kẻ chưa phục; lấy đó mà tranh giành, ai còn chống nổi? Như thế đến mấy năm, lập công không khó". Thiệu mừng nói: "Đấy là ý ta vậy". Liền cử Viện làm Giám quân, Phấn uy tướng quân.
Hiến Đế kỉ chép: Thư Viện là người quận Quảng Bình. Thủa trẻ có chí lớn, nhiều mưu lược; làm Biệt giá trong châu, cử mậu tài, làm quan Lệnh qua ba huyện, lại làm Biệt giá của Hàn Phức, cử bái làm Kị đô úy. Viên Thiệu lấy được Kí châu, lại gọi đến. Anh hùng kí chép: Bấy giờ là vào năm Sơ Bình, mà Thiệu tự Bản Sơ, tự cho là năm hợp với tên tự của mình, tất dẹp trừ được họa loạn vậy.
Trác sai Chấp kim ngô Hồ Mẫu Ban, Tướng tác đại tượng Ngô Tu đem chiếu thư dụ Thiệu, Thiệu sai Hà Nội Thái thú Vương Khuông giết họ.
Hán mạt danh sĩ lục chép: Ban tự Quý Bì, người quận Thái Sơn. Thủa trẻ cùng với tám kẻ là người huyện Sơn Âm là Độ Thượng, người huyện Đông Bình là Trương Mạc đều khinh tiền trọng nghĩa, cứu giúp kẻ sĩ, người đời gọi là 'bát trù'. Hậu Hán thư của Tạ Thừa chép: Ban là em rể của Vương Khuông. Đổng Trác sai Ban đem chiếu thư đến quận Hà Nội khuyên cởi bỏ nghĩa quân. Khuông vâng lệnh của Viên Thiệu, bắt Ban vào ngục, muốn giết Ban để răn chúng. Ban gửi thư cho Khuông nói: "Từ xưa đến nay, chưa có chư hầu nước nhỏ đem quân hướng đến kinh sư. Lưu Hướng truyện chép: 'Đánh chuột còn sợ hỏng đồ'. Huống chi Trác ở trong cung cấm, lấy thiên tử làm tấm che; vua nhỏ ở trong cung mà nên đánh sao? Ta với Thái phó Mã Công, Thái bộc Triệu Kì, Thiếu phủ Âm Tu đều nhận chiếu lệnh. Các quận miền Quan Đông dẫu thực là ghét Trác nhưng vẫn phải vâng phép vua, không nên làm nhục. Vậy mà túc hạ lại bắt ta vào ngục, muốn để tế cờ, đấy là việc làm của kẻ rất hung bạo vô đạo vậy. Ta với Đổng Trác nào có thân thích chi để cùng gây xấu mà túc hạ mở lời hổ sói, tuôn xả nọc rắn, ghét Trác mà giận sang ta, sao lại tàn khốc như thế! Chết là điều mà người khó tránh, chỉ nhục vì bị thằng cuồng gây hại. Nếu người chết có linh, sẽ tố cáo túc hạ với trời xanh vậy. Ôi, hôn nhân là then chốt của họa phúc, hôm nay đã rõ là thế. Trước kia một lòng, hôm nay gây thù. Kẻ sắp chết này có hai người con, là cháu rể của ông, sau khi thân ta chết đi, chớ cho chúng đến bên xác cốt của ta". Khuông nhận được thư, ôm hai con của Ban mà khóc. Ban bèn chết ở trong ngục. Ban từng gặp Thái Sơn Thái thú và hà bá, (3) việc này chép tại sách Sưu thần kí, lời văn nhiều nên không chép ở đây.
Trác nghe tin Thiệu có được miền Quan Đông, bèn giết hết họ hàng của Thiệu là bọn Thái phó Viên Ngôi; lúc bấy giờ, nhiều kẻ hào hiệp theo Thiệu, đều muốn vì Thiệu mà báo thù ấy; châu quận nội dậy, chẳng ai không mượn danh của Thiệu; Phức lo sợ, từ chỗ Thiệu bỏ đi, đến nương dựa Trương Mạc.
Anh hùng kí chép: Thiệu lấy người quận Hà Nội là Chu Hán làm Đô quan tòng sự. Lúc trước Hán bị Phức không giữ lễ, cho nên mang lòng oán hận, bèn có muốn mời đón Thiệu, tự phát binh trong thành quách giữ nhà Phức, xách đao lên phòng, Phức chạy lên lầu, bắt được con lớn của Phức, đánh gãy hai chân; Thiệu cũng bèn bắt Hán, giết đi. Phức vẫn lo sợ, cho nên từ chỗ Thiệu mà bỏ đi.
Sau đó Thiệu sai sứ đến chỗ Mạc, có việc bàn nghị, nói bên tai với Mạc; Phức đang ngồi ở trên, cho là bị họ mưu hại, không lâu sau đó đi đến nhà xí mà tự sát.
Anh hùng kí chép: Công Tôn Toản đánh giặc Khăn vàng ở Thanh châu, đại phá chúng, về đóng quân ở huyện Quảng Tông, thay đổi quan Thú-lệnh, bọn quan lại ở Kí Châu không ai không trông mong ứng theo, mở cửa đón nghênh. Thiệu tự đến đánh Toản, gặp đánh ở phía nam Giới Kiều hai mươi dặm. Quân bộ của Toản có hơn ba vạn người bày trận hình vuông, quân kị ở hai bên, tả hữu đều có hơn năm nghìn quân kị; quân 'bạch mã nghĩa tòng' (4) làm trung quân, cũng chia làm hai cánh, tả sang hữu, hữu sang tả, cờ xí mũ giáp sáng rợp trời đất. Thiệu sai Khúc Nghĩa đem tám trăm quân làm tiền phong, lấy nghìn cây nỏ cứng lướt theo, Thiệu tự dẫn mấy vạn quân bộ bày trận ở sau. Nghĩa lâu ngày ở Lương châu, hiểu quen cách đánh trận của người Khương, quân sĩ đều kiêu dũng. Toản thấy quân địch ít, liền xua quân kị muốn vào dày xéo; quân của Nghĩa đều nép dưới khiên không động, chưa đến mấy chục bước thì cùng lúc đều đứng dậy, tung bụi hô lớn, đi lên xông xáo, lúc ấy nỏ lớn cũng bắn, trúng liền tất ngã, vào trận chém hơn nghìn thủ cấp là quân của viên Kí châu Thứ sử Nghiêm Cương mà Toản sắp đặt; quân của Toản tan vỡ, bộ kị bỏ chạy, không còn về trại được. Nghĩa đuổi đến Giới Kiều, hậu quân của Toản quay lại đánh ở trên cầu, Nghĩa lại phá chúng, rồi đến trại của Toản, nhổ phá cửa trại, quân còn lại trong trại đều tan chạy. Thiệu ở phía sau, chưa đến cầu mấy chục dặm, xuống ngựa cởi yên, thấy Toản đã vỡ, không thèm phòng bị, chỉ đặt mấy chục cây nỏ cứng ở dưới trướng, hơn trăm quân cầm kích lớn đi theo. Chợt có hơn hai nghìn quân kị của Toản chạy đến, liền vây Thiệu mấy vòng, tên bắn như mưa; Biệt giá tòng sự Điền Phong đỡ Thiệu muốn lui vào tường trống, Thiệu cởi mũ trụ ném xuống đất nói: "Đại trượng phu nên đánh đến chết, vậy mà vào giữa tường vách, há cũng sống được"? Nỏ cứng lại bắn loạn, giết thương rất nhiều. Quân kị của Toản không biết đấy là Thiệu, cũng từ từ rút lui; kịp lúc Khúc Nghĩa đến đón, bèn tan chạy. Toản hễ đánh với địch thường cưỡi ngựa trắng, đã đuổi theo là khó thoát, nhiều lần bắt được giặc mạnh, giặc tự bảo nhau rằng: "Nên tránh quân cưỡi ngựa trắng". Vì quân địch kiêng dè, bèn chọn mấy nghìn con ngựa trắng, lựa quân cưỡi ngựa bắn tên, gọi là quân 'bạch mã nghĩa tòng'. Có người nói rằng những người rợ Hồ khỏe mạnh thường cưỡi ngựa trắng, Toản có mấy nghìn quân kị khỏe, phần nhiều cưỡi ngựa trắng, cho nên gọi thế. Thiệu đã phá Toản, dẫn quân xuống phía nam đến bến Bạc Lạc; đang cùng hội họp với các tướng tân khách, nghe tin quân ở quận Ngụy làm phản, cùng với giặc Hắc Sơn là bọn Vu Độc đánh thành Nghiệp, giết chết Thái thú Lật Thành, Giặc có hơn mười đội, có đến mấy vạn quân, tụ hội ở trong thành Nghiệp. Những tân khách đang ngồi có người nhà ở thành Nghiệp đều sợ hãi thất sắc, có kẻ đứng dậy kêu khóc, Thiệu vẻ mặt không đổi, vẫn tự yên. Có tên giặc là Đào Thăng vốn là viên quan nhỏ ở huyện Nội Hoàng, có ý tốt, đem riêng quân bản bộ qua thành phía tây đi vào, đóng giữ cửa châu, không cho quân giặc khác đi vào, lấy xe chở người nhà của Thiệu và các đồ mũa áo ở trong châu, tự mình hộ vệ, đưa đến huyện Xích Khâu mới về. Thiệu đến, bèn đóng quân ở Xích Khâu, lấy Đào Thăng làm Kiến nghĩa trung lang tướng. Lại dẫn quân vào hang Thương Nham ở núi Lộc Tràng thuộc huyện Triều Ca để đánh Vu Độc, vây đánh năm ngày, phá hắn, chém Độc và viên Kí châu mục mà triều đình ở Tràng An sắp đặt là Hồ Thọ. Rồi men theo núi đi lên phía bắc, đánh phá bọn giặc Tả phát trượng bát, đều chém chúng. Lại đánh bọn giặc Lưu Thạch-Thanh ngưu giác-Hoàng long-Tả hiệu- Quách Đại Hiền-Lí Đại Mục-Vu Để Căn, đều giết cả đồn lũy, kẻ chạy trốn mới thoát, chém mấy vạn thủ cấp. Thiệu lại về đóng quân ở thành Nghiệp. Năm Sơ Bình thứ tư, thiên tử sai Thái phó Mã Nhật Đê, Thái bộc Triệu Kì hòa giải miền Quan Đông. Kì đi riêng đến miền bắc sông Hoàng Hà, Thiệu ra đón ở ngoài trăm dặm, vâng nhận lệnh vua. Kì ở trại của Thiệu, gửi thư báo cho Toản, Toản sai sứ gửi thư cho Thiệu rằng: "Triệu Thái bộc lấy đức của Chu Thiệu, nhận lệnh sang đông, tuyên dương ân trạch, tỏ ý hòa mục, sáng như vén mây thấy mặt trời, còn gì vui như thế? Ngày xưa Giả Phục-Khấu Tuân cũng tranh quân sĩ, muốn gây hại nhau, gặp ý rộng lượng của vua Quang Vũ, tự cùng bái gặp, cùng kiệu cùng đi, người thời ấy cho là vinh. Ta tự xét là kẻ nơi biên giới, được hòa cùng với tướng quân là điều phúc. Đấy thực là lòng chú ý của tướng quân, là điều may của Toản vậy". Khúc Nghĩa sau đó cậy công mà kiêu căng, Thiệu bèn giết đi.
Trước đây, thiên tử được lập vốn không phải là ý của Thiệu; lúc ở tại miền Hà Đông, Thiệu sai người quận Dĩnh Xuyên là Quách Đồ đi sứ. Đồ về khuyên Thiệu đón thiên tử đóng đô ở thành Nghiệp, Thiệu không nghe.
Hiến Đế truyện chép: Thư Viện khuyên Thiệu rằng: "Nhà tướng quân nhiều đời làm tướng quốc, trung nghĩa giúp đời. Nay triều đình chao đảo, tông miếu vỡ đổ. Xem châu quận, ngoài mượn việc dấy nghĩa binh, trong đánh diệt nhau, chưa có ai có ý cứu dân. Vả lại ngày thành châu mới định, nên đón nhà vua đến dựng đô ở thành Nghiệp, kẹp thiên tử mà lệnh chư hầu, nuôi quân mã để đánh kẻ không phục; lúc đấy còn ai chống được"! Thiệu mừng, muốn nghe theo. Quách Đồ-Thuần Vu Quỳnh nói: "Nhà Hán suy bại đã lâu ngày rồi, nay nếu dựng lại, cũng chẳng khó sao? Lại nữa ngày nay anh hùng chiếm lấy châu quận, trăm họ dao động, đấy gọi là nhà Tần làm mất con hươu, kẻ bắt được trước tất làm vua. Nếu đón thiên tử để tự thân cận thì có việc thì phải dâng biểu, phải vâng lệnh thì quyền ít, nếu trái ý thì chống lệnh; đấy chẳng phải là kế hay". Viện nói: "Nay đón triều đình là rất có nghĩa, lại là kế lớn hợp với thời vậy. Nếu không sớm làm đi thì tất có người làm trước. Nắm quyền chớ để mất cơ hội, lập công cốt tại nhanh nhạy, tướng quân hãy làm đi"! Thiệu không làm được. Xét sách này nói là kế của Thư Viện, đấy là trái với truyện gốc.
Kịp lúc Thái Tổ đón thiên tử đóng đô ở đất Hứa, thu đất Hà Nam, miền Quan Trung đều theo phục; Thiệu tiếc, muốn sai Thái Tổ dời thiên tử đóng đô ở huyện Quyên Thành để tự thân cận, Thái Tổ chống lại. Thiên tử lấy Thiệu làm Thái úy, phong tước Nghiệp Hầu;
Hiến Đế xuân thu chép: Thiệu nhục vì thứ bậc ở dưới Thái Tổ, giận nói: "Tào Tháo mấy lần suýt chết, ta liền cứu mới sống. Nay lại phản ân, kẹp thiên tử để sai ta chăng"! Thái Tổ nghe tin, liền đem chức Đại tướng quân nhường cho Thiệu.
Thiệu nhường tước Hầu không nhận. Chốc lát, Thiệu đánh phá Toản ở thành Dịch, thu quân của Toản.
Điển lược chép: Từ đấy Thiệu ít dâng cống cho thiên tử, sai riêng Chủ bạ Cảnh Bao bẩm kín rằng: "Vận hỏa suy kiệt, họ Viên là dòng dõi của vận thổ, (5) nên theo ý trời". Thiệu vì Bao bẩm kín việc này cho quan thuộc trong phủ quân. Người bàn đều cho là Bao xằng bậy, đáng giết; Thiệu bèn giết Bao để tự giải thích. Cửu châu xuân thu chép: Thiệu mời gọi người quận Bắc Hải là Trịnh Huyền mà không có lễ, Triệu Dung nghe tin, nói: "Người hiền là người quân tử mong gặp. Người làm vua còn không dám làm mất ý vui của vạn dân, huống chi là đối với quân tử đây? Nếu làm mất ý mong của quân tử thì khó mà có được quân tử vậy". Anh hùng kí chép bài hát Đổng Trác ca, lời rằng: "Đức hạnh không sót thiếu, biến cố khó xem thường, Trịnh Khang Thành uống rượu mà ngã xuống đất tắt thở, Quách Cảnh Đồ cũng mất mạng ở vườn dâu". Như lời văn này thì Huyền không bị bệnh mà chết. Các sách khác không thấy chép, cho nên chép bài này ra đây.
Lấy con cả là Đàm ra làm Thanh châu Thứ sử, Thư Viện can Thiệu rằng: "Tất gây mầm họa". Thiệu không nghe, nói: "Ta muốn sai các con đều giữ một châu vậy".
Cửu châu xuân thu chép lời can gián của Thư Viện rằng: "Người đời nói rằng một con thỏ chạy trên đường mà vạn người đuổi bắt, nếu một người bắt được nó thì những người tranh bắt đều dừng lại, đã phân định vậy. Vả lại tuổi thọ do ở hiền năng, đức hạnh do ở bói đoán, đấy là phép cũ vậy. Mong trên nghĩ lời răn thành bại của đời trước, dưới xét cái nghĩa bắt thỏ phân định". Thiệu nói: "Ta muốn sai bốn đứa con đều giữ lấy một châu để xem tài của chúng". Viện lui ra, nói: "Họa bắt nguồn từ đấy sao"! Đàm mới đến Thanh châu, làm Đô đốc, chưa làm Thứ sử; châu ấy từ sông Hoàng Hà về phía tây, đại khái chỉ đến chỗ không quá quận Bình Nguyên mà thôi. Bèn lên phía bắc diệt Điền Khải, sang phía đông đánh Khổng Dung, giễu binh đến bờ biển. Bấy giờ trăm họ không có ai làm chủ, mừng rỡ đi theo. Nhưng tin dùng bọn tiểu nhân, ưa nghe lời ngon ngọt, xa xỉ phóng túng, không biết rằng việc trồng lúa vất vả. Hoa Ngạn-Khổng Thuận là bọn tiểu nhân gian nịnh mà tin dùng làm tim bụng; bọn Vương Tu chỉ làm quan nhỏ mà thôi. Nhưng lại biết đối đãi tân khách, kính trọng kẻ sĩ. Sai em vợ lĩnh quân ở trong, để cho cướp bóc, ngoài chốn phố chợ còn cướp lấy ở chốn đồng ruộng; sai riêng hai tướng quân mộ binh ở các huyện, kẻ hối lộ thì được tha, không thì bị lấy. Nhiều người nghèo yếu, đến nỗi phải chui nấp trong đồng gò, bèn xua quân bắt trói như bắt cầm thú. Ấp có vạn hộ dân mà chép vào sổ bạ không đầy mấy trăm hộ, thu thuế nạp tô không đến một phần ba. Sai gọi người hiền, nếu họ không đến hay không đến hẹn quân dịch mà ở yên nơi thôn ấp cũng không bị phạt tội thêm.
Lại lấy con giữa là Hi làm U châu Thứ sử, con rể là Cao Cán làm Tinh châu Thứ sử. Thiệu có mấy chục vạn quân, lấy Thẩm Phối-Phùng Kỉ coi việc quân, Điền Phong-Tuân Kham-Hứa Du làm mưu sĩ, Nhan Lương-Văn Sửu làm tướng súy, chọn mười vạn quân, một vạn quân kị khỏe, mưu đánh đất Hứa.
Thế ngữ chép: Thiệu có năm vạn quân bộ, tám nghìn quân kị. Tôn Thịnh bình rằng: "Xét Ngụy Vũ Đế bảo Thôi Diễm rằng: 'Vừa xét sổ hộ của châu này, có thể thu đến ba mươi vạn quân'. Do đó mà suy, riêng quân của Kí châu đã như thế, huống chi cả U châu-Tinh châu và Thanh châu đây? Thiệu phát đại binh, tất gom hết quân mà dùng, phải đến mười vạn quân vậy". Hiến Đế truyện chép: Thiệu muốn đem quân đánh miền nam, Thư Viện-Điền Phong can rằng: "Phát quân nhiều năm, trăm họ mỏi mệt, kho tàng không chứa, tô thuế càng nhiều, đấy là nỗi lo sâu nặng của nhà nước vậy. Nên sai người báo tin vui cho thiên tử trước, rồi chăm chỉ trồng trọt mà cho dân nghỉ ngơi, nếu chẳng làm được thì dâng biểu tấu họ Tào chặn đường thờ vua của ta rồi mới tiến quân đến Lê Dương, dần dần chiếm miền Hà Nam, làm thêm thuyền bè, sửa sang khí giới, chia sai quân kị khỏe đi đánh lấy nơi biên giới, khiến cho nên ấy không được yên mà ta lại được ổn. Như thế trong ba năm thì ngồi mà định được vậy". Thẩm Phối-Quách Đồ nói: "Theo phép dùng binh, 'thập vây ngũ công' (6) thì mới đánh địch được. Nay dựa vào thần vũ của minh công, xua quân mạnh của miền Hà Bắc để đánh họ Tào thì dễ như trở bàn tay. Nay không lấy thì sau khó đánh được". Viện nói: "Cứu nạn dẹp bạo gọi là quân nghĩa; cậy đông dựa mạnh, gọi là quân kiêu. Quân nghĩa thì không ai địch, quân kiêu tất diệt trước. Họ Tào đón thiên tử đóng đô ở đất Hứa; nay ta phát quân xuống phía nam, về nghĩa là trái. Vả lại kế hay hơn cả là không tại ở hiếp yếu. Họ Tào đã đặt pháp lệnh, quân sĩ thành thạo, không phải như Công Tôn Toản ngồi chịu vây đâu. Nay bỏ kế vẹn toàn mà dấy quân không có danh nghĩa, thần trộm lo cho minh công"! Bọn Đồ nói: "Vũ Vương đánh Trụ, không gọi là không có nghĩa, huống chi đem quân đánh họ Tào mà gọi là không có danh nghĩa sao? Vả lại minh công tỏ sức thần võ, tướng sĩ hăng hái, người ta tự theo, vậy mà không sớm hợp thời định nghiệp lớn, đấy là ý lầm vậy. Nếu trời cho mà không lấy thì chỉ chước lấy họa, đấy là nguyên nhân vua Việt làm bá vương mà Ngô mất nước vậy. Kế của quan Giám quân chỉ như giữ lấy tù ngục mà không phải là cái quyền biến của người biết thời cơ". Thiệu nghe theo. Bọn Đồ nhân đó gièm Viện với Thiệu rằng: "Viện coi xét trong ngoài, oai lừng ba quân. Nếu bên ấy cường thịnh thì lấy gì mà ngăn được? Tôi không nắm quyền ngang với vua thì hưng, vua nắm quyền ngang tôi thì vong, đấy là điều mà sách Hoàng thạch kị vậy. Vả lại nắm quân ở ngoài thì không nên coi việc ở trong". Thiệu nghi ngờ, bèn chia quan chủ việc quân làm ba vị Đô đốc, sai Viện và Quách Đồ-Thuần Vu Quỳnh đều nắm một cánh quân, rồi hợp mà xuống đánh miền nam.
Lúc trước, Thái Tổ sai Lưu Bị đến Từ châu chống Viên Thuật; kịp lúc Thuật chết, Bị giết Thứ sử Xa Trụ, dẫn quân đóng đồn ở nước Bái. Thiệu sai quân kị giúp Bị. Thái Tổ sai Lưu Đại- Vương Trung đánh Bị, không thắng. Năm Kiến An thứ năm, (năm 200 Công nguyên) Thái Tổ tự sang phía đông đánh Bị. Điền Phong khuyên Thiệu đánh úp mặt sau của Thái Tổ nhưng Thiệu vì con bệnh mà không theo; Phong ném gậy xuống đất nói: "Đây là thời cơ khó gặp, vì con nhỏ bệnh mà làm mất cơ hội, tiếc thay"! Thái Tổ đến, đánh phá Bị, Bị sang chỗ Thiệu.
Ngụy thị xuân thu chép văn của Thiệu hịch gọi châu quận rằng: "Thường nghe vua sáng mưu cứu nguy để dẹp loạn, tôi trung mưu trừ nạn để lập quyền. Ngày xưa nhà Tần cường bạo mà vua lại yếu kém, Triệu Cao nắm quyền, chuyên chế triều đình, tự gây oai phúc, rút cuộc có mối họa ở cung Vọng Di, để tiếng xấu nhục đến nay. Kịp đến thời Lữ Hậu-Lộc-Sản chuyên chính, nắm giữ quyền lệnh, coi xét hình pháp, lấn trên hiếp dưới, người cả nước đau lòng. Do đó Giáng Hầu-Chu Hư tỏ oai trổ giận, diệt trừ nghịch loạn, tôn lập Thái Tông, thế nên mới nêu dậy đạo hóa, sáng rõ rạng rỡ; đấy là tấm gương sáng của bậc đại thần lập quyền vậy. Ngày nay Tư không Tào Tháo, ông nội là Đằng vốn làm Trung thường thị, cùng với bọn Tả Quán-Từ Hoàng gây tai nghiệt, phóng túng hung ác, tàn ngược dân chúng. Cha là Tung, xin làm con nuôi, nhân đó mua chức, xe vàng bánh ngọc chở tiền vào nhà bọn quyền quý, cướp vị Tam công, đảo lộn triều đình. Tháo nối tính xấu, không có đức lành, cậy mạnh hiếp yếu, ưa loạn gây họa. Khi trước mạc phủ (7) thống lĩnh bọn anh hùng quét trừ bọn hung nghịch, kế đó gặp buổi Đổng Trác hiếp quan hại nước, do đó vung kiếm gõ trống, phát lệnh ở miền đông, thu nạp bọn anh hùng, bỏ xấu chọn dùng. (8) Cho nên cùng bày mưu với Tháo, cho rằng hắn có tài ưng khuyển, nên dùng làm nanh vuốt. Thế nhưng hắn lại ngu dốt nghĩ kém, khinh thường hiệu lệnh, dẫn đến thua vỡ, nhiều lần mất quân. Mạc phủ liền lại chia quân khỏe bù đắp sửa sắm cho hắn, cử làm Đông Quận Thái thú, Duyện châu Thứ sử, cho mặc da hổ, cho lĩnh quân mạnh, trao gửi quyền oai, mong rằng sẽ thắng quân Tần một trận. Vậy mà Tháo lại thừa cơ giày xéo, phóng túng hung bạo, giết chóc dân chúng, tàn hại người hiền. Cửu Giang Thái thú Biên Nhượng trước kia là bậc anh tài hơn đời, nổi danh thiên hạ, vì nói thẳng cứng cỏi, bàn chẳng a dua, thế mà thân bị giết treo đầu, vợ con cũng bị họa di diệt. Từ đấy kẻ sĩ tức giận, dân oán càng nhiều, một người giương tay thì cả châu ứng lời, cho nên Tháo bị người Từ châu đánh phá, bị Lữ Bố đoạt lấy đất, vất vưởng ở miền đông, không có chỗ đứng chân. Mạc phủ nghĩ đến cái nghĩa gốc mạnh cành yếu, lại không khép hắn vào bọn phản loạn, cho nên lại trao cờ cấp quân, ra lệnh đánh dẹp, gõ trống vang lừng, quân Bố thua vỡ, cứu hắn khỏi cái họa chết người, lập lại chức quan cho hắn; đấy là mạc phủ không có đức với dân ở Duyện châu mà lại có công giúp Tháo vậy. Sau kịp lúc nhà vua về lại miền đông, bọn giặc gây loạn. Bấy giờ Kí châu đang có việc ở biên ải phía bắc, ta chưa ra khỏi châu được, cho nên sai Tòng sự trung lang Từ Huân đến dụ lệnh Tháo, sai phải đắp sửa tông miếu, giúp đỡ vua nhỏ. Nhưng hắn lại tự ý chuyên quyền, ép vua dời đô, ức hiếp trăm quan, làm loạn kỉ cương, ngồi trên tam đài, nắm giữ chính sự, phong tước tùy ý, xử phạt tùy miệng. Kẻ mà mình thích thì cho năm họ rạng rỡ, kẻ mà mình ghét thì bắt ba họ diệt cả. Bọn nào dám bàn luận thì bị giết trước mặt, bọn nào bàn nghị để trong lòng thì bị giết ngấm ngầm, do đó người đi đường chỉ liếc mắt, trăm quan ngậm miệng, các quan Thượng thư đến chầu hội, công khanh làm quan chỉ có chỗ đứng mà thôi. Thái úy Dương Bưu từng nắm vị Tam công, chức cao cả nước, do đó Tháo ganh hiềm, khép cho tội lỗi, kéo ra đánh đập, đủ năm hình phạt, tự ý càn rỡ, không theo phép tắc. Lại nữa Nghị lang Triệu Ngạn, nói thẳng can gián, lời bàn đáng làm, cho nên triều đình nghe theo, vui lòng ban thưởng, nhưng Tháo muốn cướp đoạt quyền bính, cấm ngăn bàn nghị, liền bắt giết đi, không cần báo lên. Lại nữa Lương Hiếu Vương là em ruột của tiên đế, lăng mộ tôn quý, tùng bách trên đó còn phải kính nghiêm, thế mà Tháo tự đem quan tướng quân sĩ đến đào bới, phá quan lộ thây, cướp lấy vàng ngọc, khiến cho triều đình rơi lệ, quân dân đau xót. Lại nữa đặt quan Phát khâu trung lang tướng, Mô kim hiệu úy, (9) qua đâu bới đó, không xương cốt nào không phơi lộ. Thân tự nắm vị Tam công mà lại làm việc bạo ngược, phá dân hại nước, tuôn độc thần người như thế. Lại thêm chính sự phiền hà, (10) bày cách ngăn ngừa, như giăng lưới chặn đường, đào hố ngăn lối, giương tay thì mắc lưới, động chân thì vướng bẫy, cho nên miền Duyện-Dự không có dân yên vui, miền kinh đô có tiếng oán than thở. Xem qua sách vở xưa nay chép về những bầy tôi vô đạo tàn ngược, như Tháo là quá lắm. Mạc phủ đang phạt tội kẻ gian ngoài cõi, chưa kịp dạy hắn, có ý rộng lượng, mong hãy sửa lỗi. Thế nhưng Tháo mang lòng lang sói, ngầm mưu gây họa, lại muốn bẻ gãy cột trụ, làm cho nhà Hán suy yếu, diệt trừ người trung lương, chuyên làm việc kiêu hùng. Năm ngoái ta gióng trống lên miền bắc đánh Công Tôn Toản, ngăn quân hung nghịch, chống giữ một năm; Tháo nhân lúc quân ta chưa phá được giặc, ngầm gửi thư qua lại, muốn mượn cớ giúp quân ta để đến đánh úp, cho nên dẫn quân đến sông Hoàng Hà. Đang chèo thuyền sang bờ bắc thì gặp lúc người đi đường tiết lộ, lúc ấy Toản cũng bị diệt, cho nên mũi nhọn cùn nhụt, mưu kế không thành. Hắn giữ Ngao Thương, dựa sông Hoàng Hà làm chỗ vững, lại muốn lấy cánh tay bọ ngựa để chặn bánh xe lớn. Mạc phủ vâng oai linh của nhà Hán, chiếu rọi vũ trụ, mang trăm vạn cây kích dài, phát tướng khỏe như Trung Hoàng-Dục-Hoạch, (11) tỏ thế nỏ cứng cung bền, từ Tinh châu qua núi Thái Hàng, từ Thanh châu vượt sông Tế-Lũy, đại quân bơi sông Hoàng Hà đến đánh trước, từ Kinh châu xuống thành Uyển-Diệp mà đánh mặt sau, sấm động hổ vồ, cùng đến hang giặc như phóng lửa bừng để đốt cỏ khô, múc nước biển lớn mà dập than cháy, có gì chẳng tiêu diệt được đây? Ngày nay nhà Hán suy yếu, kỉ cương đứt gãy. Tháo đem trăm vạn quân khỏe vây giữ cung cấm, ngoài xưng là bảo vệ, nhưng trong thực là bắt giữ. Ta sợ hắn gây họa tiếm nghịch từ đó mà ra. Đây là buổi trung thần phải gan óc lấy đất, là thời tráng sĩ nên lập công vậy. Chẳng đáng gắng sao"! Đây là lời văn của Trần Lâm.
Thiệu đem quân đến Lê Dương, sai Nhan Lương đánh Lưu Diên ở huyện Bạch Mã. Thư Viện lại can Thiệu rằng: "Lương tính nóng vội, dẫu kiêu dũng nhưng không nên dùng một mình". Thiệu không nghe. Thái Tổ cứu Diên, đánh với Lương, phá chém Lương.
Hiến Đế truyện chép: Thiệu sắp đi đánh, Thư Viện họp họ hàng của mình, chia của cải để cho họ, nói: "Quyền còn thì oai không nơi nào không đến, quyền mất thì không giữ được một tấm thân. Thương thay"! Em là Tông nói: "Quân mã của Tào Công khó địch được quân ta, anh sao lại sợ"! Viện nói: "Dựa vào cái mưu sáng của Tào Duyện châu, lại kẹp thiên tử để làm thế riêng, quân ta dẫu đã thắng Công Tôn Toản nhưng quân thực là yếu kém, lại nữa tướng kiêu chủ căng thì quân thua bại, là do ở đấy. Dương Hùng có nói: 'Sáu nước ngu si, giúp họ Doanh diệt họ Cơ', là nói về ngày nay vậy".
Thiệu vượt sông Hoàng Hà, đóng lũy ở phía nam Diên Tân, sai Lưu Bị-Văn Sửu dụ đánh,Thái Tổ đánh phá chúng, chém Sửu; đánh nữa, bắt được đại tướng của Thiệu, quân của Thiệu cả kinh.
Hiến Đế truyện chép: Thiệu sắp vượt sông, Thư Viện can rằng: "Thắng thua biến hóa, không thể không rõ. Nay nên đóng đồn ở bến Diên Tân, lại chia quân đến Quan Độ. Nếu thắng được thì trở về không muộn. Nếu đánh gặp khó thì quân chẳng về được". Thiệu không nghe. Viện sắp vượt sông, than rằng: "Trên thì tỏ chí lớn, dưới thì ham lập công, sông Hoàng Hà mênh mông, ta không quay về được chăng"! Bèn lấy cớ bệnh từ chối, Thiệu giận, liền cắt quân bản bộ của Viện trao cho Quách Đồ.
Thái Tổ về Quan Độ. Thư Viện lại nói: "Quân bắc dẫu đông nhưng không khỏe mạnh bằng quân nam; nhưng quân nam lương thiếu ít mà đồ dùng lại không bằng quân bắc; quân nam lợi lở đánh nhanh, quân bắc lợi ở đánh lâu. Nên thong thả chờ đợi để ngày tháng dây dưa". Thiệu không theo, các đội liên tiếp tiến lên, đến gần Quan Độ, gặp đánh, quân của Thái Tổ không được lợi, rút về giữ lũy. Thiệu làm khiên lớn, đắp gò đất, bắn tên vào trong lũy, quân trong lũy đều che khiên, quân Thái Tổ cả sợ. Thái Tổ bèn làm xe bắn đá, bắn lầu của Thiệu, đều phá được, quân của Thiệu gọi là 'xe sấm sét'.
Ngụy thị xuân thu chép: Vì thời xưa có bắn đá, lại nữa kinh truyện có chép: "Quái động thì đánh trống". Giải thích rằng: "Quái là bắn đá vậy". Do đó làm xe bắn đá.
Thiệu đào hầm đất, muốn đánh úp trại của Thái Tổ. Thái Tổ liền dựng lũy dài ở trong để chống lại, lại sai quân mạnh đánh úp xe vận lương của Thiệu, đại phá chúng, đốt sạch lương thóc. Thái Tổ chống nhau với Thiệu lâu ngày, trăm họ thiếu đói, nhiều người phản theo Thiệu, quân sĩ thiếu lương. Kịp lúc Thiệu sai bọn Thuần Vu Quỳnh đem hơn vạn quân lên phía bắc chở lương, Thư Viện khuyên Thiệu rằng: "Nên sai tướng là Tưởng Kì đi riêng làm một đội để chặn Tào Công đi cướp". Thiệu lại không theo. Quỳnh đóng quân ở Ô Sào, cách chỗ quân của Thiệu bốn mươi dặm. Thái Tổ bèn để Tào Hồng ở lại giữ, buổi đêm tự đem năm nghìn quân bộ kị lẻn đi đến đánh Quỳnh; Thiệu sai quân kị cứu Quỳnh, nhưng thua chạy. Thái Tổ phá bọn Quỳnh, chém hết chúng. Thái Tổ về, chưa đến trại, tướng của Thiệu là bọn Cao Lãm-Trương Cáp đem quân bản bộ đến hàng. Quân của Thiệu vỡ lở, Thiệu cùng Đàm cưỡi ngựa rút qua sông. Quân còn lại giả hàng, Thái Tổ chôn sống hết chúng.
Hán kỉ của Trương Phan chép: Giết quân của Thiệu cả thảy tám vạn người.
Thư Viện không kịp qua sông, bị quân bắt được, đưa đến chỗ Thái Tổ.
Hiến Đế truyện chép: Viện kêu to rằng: "Viện này không hàng, để quân địch bắt thôi". Thái Tổ có quen với Viện, đón bảo Viện rằng: "Thân phận khác biệt, cho nên ngăn cách. Không ngờ hôm nay lại bắt nhau thế này"! Viện đáp nói: "Kí châu không có sách lược mà chuốc lấy thua vỡ. Viện trí lực đều khốn nên mới bị bắt vậy". Thái Tổ nói: "Bản Sơ không có mưu, không dùng kế của ông. Nay tang loạn nhiều năm, nhà nước chưa yên, ta nên cùng cứu giúp". Viện nói: "Chú ruột, mẹ, em treo mạng ở nhà họ Viên. Nếu được ngài mở ân, dẫu chết cũng là phúc". Thái Tổ than rằng: "Ta sớm có được ông thì thiên hạ chẳng đáng lo".
Thái Tổ đãi hậu Viện, sau lại mưu về chỗ họ Viên, bị giết. Lúc trước, Thiệu xuống phía nam, Điền Phong khuyên Thiệu rằng: "Tào Công giỏi dùng binh, biến hóa không lường. Quân dẫu ít nhưng không nên khinh thường. Không bằng chống giữ lâu ngày. Tướng quân dựa vào cái vững của sông núi, nắm quân của bốn châu, ngoài kết anh hùng, trong sửa việc nông, rồi kén chọn quân tinh nhuệ, chia làm quân lạ, chọn chỗ hở mà ra đánh để lấy miền Hà Nam, cứu hữu thì đánh bên tả, cứu tả thì đánh bên hữu, khiến cho quân địch mệt mỏi vì rong ruổi, dân không được ở yên; lúc ấy ta chưa mệt mà địch đã khốn, chưa đến hai năm thì có thể ngồi mà đánh thắng vậy. Nay bỏ kế chắc thắng mà lại quyết được thua ở một trận, nếu chẳng như ý thì hối chẳng kịp nữa". Thiệu không theo. Phong cố can, Thiệu giận lắm, cho là ngăn trở quân sĩ, bắt trói lại. Quân của Thiệu đã thua, có người bảo Phong rằng: "Ông tất được coi trọng". Phong nói: "Nếu quân có lợi thì ta được sống. Nay quân thua, ta tất chết thôi". Thiệu về, bảo tả hữu nói: "Ta không nghe lời Điền Phong, quả nhiên bị chê cười". Bèn giết Phong.
Tiên hiền hành trạng chép: Phong tự Nguyên Hạo, người quận Cự Lộc, có kẻ nói là người quận Bột Hải. Phong bản tính kiệt hiệt, quyền biến nhiều mưu. Thủa trẻ mất người thân, để tang rất đau buồn. Kì tang dẫu qua nhưng vẫn không cười. Học rộng biết nhiều, nổi danh trong châu. Lúc đầu được mời đến phủ Thái úy, cử mậu tài, chuyển làm Thị ngự sử. Bọn hoạn quan chuyên quyền, kẻ anh hiền bị hại, Phong bèn bỏ quan về nhà. Kịp lúc Viên Thiệu khởi nghĩa, nói lời nhún nhường tặng tiền nhiều để mời Phong đến, Phong vì nhà vua nhiều nạn, có chí cứu giúp, liền vâng lệnh của Thiệu, cho làm Biệt giá. Khuyên Thiệu đón thiên tử, Thiệu không nghe, sau Thiệu dùng mưu của Phong mà dẹp Công Tôn Toản. Phùng Kỉ ngại tính thẳng thắn của Phong, nhiều lần gièm Phong với Thiệu, Thiệu bèn ngờ Phong. Vào lúc quân của Thiệu thua, vỡ lở trốn về phương bắc, quân sĩ mất cả, quân đều đấm ngực mà khóc nói: "Nếu để Điền Phong ở đấy thì không đến nỗi thế này". Thiệu bảo Phùng Kỉ nói: "Người Kí châu nghe tin quân ta thua đều đang giận ta, riêng Điền Biệt giá lúc trước can ngăn ta, không giống với mọi người, nếu ta gặp hắn cũng thẹn". Kỉ lại nói: "Phong nghe tin tướng quân rút về, liền vỗ tay cười lớn, vui vì lời mình đúng". Do đó Thiệu có ý giết Phong. Trước đây, Thái Tổ nghe nói Phong không theo quân, mừng nói: "Thiệu tất thua thôi". Kịp lúc Thiệu chạy trốn, lại nói: "Nếu mà Thiệu dùng kế của Điền Biệt giá thì còn chưa biết thế nào"! Tôn Thịnh nói: "Ta xem mưu của Điền Phong-Thư Viện, dẫu là Lương-Bình há hơn được thế? Cho nên vua quý phải người tài, tôi phải chọn vua; vua dùng người trung lương thì nghiệp bá vương mới lập được. Tôi thờ vua ngu tối thì chỉ chuốc họa nguy vong. Được mất vinh nhục thường do ở đấy. Phong biết Thiệu sắp thua, thua thì mình tất chết, vui lòng xông vào miệng hổ để tỏ hết lòng trung, tráng sĩ đối với việc ấy, chẳng nghĩ thân mình được sống vậy. Đối với bầy tôi của chư hầu, về nghĩa thì có thể bỏ đi hoặc theo về, huống chi là Phong không phải là bầy tôi thân cận của Thiệu đây! Kinh Thi chép: 'Ta từ bỏ người, đến chỗ yên vui', ý nói bỏ nơi loạn là cũng phải đạo vậy".
Thiệu ngoài thì rộng rãi, có khí độ, vui buồn không lộ ra mặt nhưng trong lại nghi kị, đều đại loại như thế.
Nhiều thành ấp ở Kí châu làm phản, Thiệu lại đánh dẹp được. Từ sau khi quân thua bèn sinh bệnh. Năm (Kiến An) thứ bảy, (năm 202 Công nguyên) lo lắng mà chết.
Thiệu sủng ái con nhỏ là Thượng, có vẻ đẹp, muốn lấy làm nối tự mà chưa nói ra.
Điển lược chép: Đàm là con cả lại có ân huệ, Thượng là con út mà có dáng đẹp. Vợ của Thiệu là Lưu thị yêu Thượng, nhiều lần khen tài của Thượng, Thiệu cũng khen dáng vẻ của Thượng, muốn cho nối dõi, chưa kịp nói ra thì Thiệu chết. Lưu thị tính ganh kị, Thiệu chết, thây liệm chưa xong thì năm người thiếp được Thiệu sủng ái đã bị Lưu thị giết cả. Cho là người chết cũng biết, sẽ lại gặp Thiệu ở dưới đất, liền cắt tóc bôi mực lên mặt để hủy dáng vẻ của họ. Thượng lại giết sạch người nhà của những người đã chết kia.
Thẩm Phối-Phùng Kỉ tranh quyền với Tân Bình-Quách Đồ, Phối-Kỉ kết với Thượng, Bình-Đồ kết với Đàm. Mọi người vì Đàm là con cả, muốn lập Đàm. Bọn Phối sợ Đàm lập thì bọn Bình sẽ hại mình, bèn theo ý cũ của Thiệu, rồi lấy Thượng thay vị của Thiệu. Đàm đến, không được lập, tự hiệu làm Xa kị tướng quân. Do đó Đàm-Thượng hiềm khích. Thái Tổ lên phía bắc đánh Đàm-Thượng. Đàm dẫn quân đến Lê Dương; Thượng cấp cho Đàm ít quân, lại sai Phùng Kỉ đến chỗ Đàm; Đàm xin thêm quân, bọn Phối bàn không cho, Đàm giận, giết Kỉ.
Anh hùng kí chép: Kỉ tự Nguyên Đồ. Trước đây, Thiệu bỏ Đổng Trác chạy ra, cùng với Hứa Du và Kỉ đến Kí châu. Thiệu vì Kỉ thông đạt có kế sách, rất tin dùng Kỉ, cùng Kỉ dấy binh. Sau đó lại dùng Thẩm Phối, Phối không hòa với Kỉ. Có kẻ gièm Phối với Thiệu, Thiệu hỏi Kỉ, Kỉ nói: "Phối bản tính cứng cỏi, có khí tiết của người xưa, không nên nghi ngờ hắn". Thiệu nói: "Ông chẳng ghét hắn sao"? Kỉ đáp nói: "Ngày trước tranh giành là vì tình riêng, nay thần nói là vì việc nước". Thiệu khen lời, rút cuộc không bỏ Phối. Do đó Phối càng thân thiện với Thiệu.
Thái Tổ vượt sông Hoàng Hà đánh Đàm, Đàm gấp báo cho Thượng. Thượng muốn chia quân cứu Đàm, nhưng sợ Đàm chiếm lấy quân của mình, bèn sai Thẩm Phối giữ thành Nghiệp, còn Thượng tự đem quân giúp Đàm, chống nhau với Thái Tổ ở Lê Dương. Từ tháng hai đến tháng chín, (năm Kiến An thứ tám) đánh lớn ở dưới thành, Đàm-Thượng thua chạy vào giữ thành. Thái Tổ lại vây thành, Đàm-Thượng bèn buổi đêm chạy trốn. Đuổi đến thành Nghiệp, thu gặt lúa mạch ở đấy, lại phá thành Âm An, rồi dẫn quân về đất Hứa. Kịp lúc Thái Tổ xuống phía nam đánh Kinh châu, dẫn quân đến quận Tây Bình; Đàm-Thượng bèn phát quân đánh nhau, Đàm thua trốn đến quận Bình Nguyên. Thượng gấp đánh Đàm, Đàm sai Tân Bì đến chỗ Thái Tổ xin cứu, Thái Tổ bèn về cứu Đàm; Tháng mười, (năm Kiến An thứ tám) Thái Tổ đến Lê Dương.
Ngụy thị xuân thu chép thư của Lưu Biểu gửi Đàm rằng: "Trời xanh giáng hại, họa nạn nhiều đầy. Tiên công mất đi khiến cho người khắp bốn cõi đau lòng. Kịp lúc con hiền nối dõi, mọi người trông mong, đều muốn tỏ rõ tài sức để thờ minh chủ; dẫu đến lúc mất vẫn còn mong như thế. Sao lại để ruồi xanh bay ở cán cờ, vi vu lượn qua hai trại, khiến cho đùi tay chia làm hai phần, lưng bụng cắt làm thân khác! Ngày xưa từ thời Tam vương-Ngũ bá đến thời Chiến quốc, cha con giết nhau, đã có thế ấy. Nhưng nếu muốn lập thành nghiệp vương, hoặc muốn định công bá, hoặc muốn làm rạng rỡ tổ tiên, hoặc muốn giữ gìn dòng dõi thì chưa có ai bỏ người thân mà chia cắt gốc rễ của mình, mà chỉ chăm chỉ lập công, truyền lộc cho đời sau vậy. Như Tề Tương Công trả thù mối thù của chín đời, Sĩ Cái lập nên công của Tuân Yển, cho nên kinh Xuân thu khen nghĩa của họ, bậc quân tử quý cái tín của họ. Bá Du đã oán với vua Tề không bằng tiên công oán Tháo vậy; Tuyên Tử nối nghiệp không bằng ngài nối nghiệp vậy. Vả lại quân tử tránh nạn thì không đến đất địch, há quên cái oán của thái công mà bỏ đi cái tình của người thân, làm gương cho vạn đời, để lại nỗi nhục của đông đồng minh sao! Em ngài ở Kí châu kiêu căng đã thế rồi; ngài nên nhẫn chí nhịn nhục để làm việc giúp nước; dẫu bị phu nhân ghét cũng không bằng Trịnh Trang Công bị Khương thị ghét. Anh em ngài hiềm khích cũng không bằng Trọng Hoa hiềm ganh với Tượng vậy. Thế mà Trịnh Trang Công vẫn có buổi bày nhạc ở hầm đất, Tượng được phong ở ấp Hữu Tị. Mong hãy vứt bỏ oán trước, nghĩ kĩ nghĩa cũ, lập lại tình anh em như xưa". Lại gửi thư cho Thượng rằng: "Ta biết loạn do ở Tân-Quách, gây họa cho anh em, nhớ việc cũ của Át Bá-Thực Thẩm quên cái nghĩa để tang chép trong bài Thường khang mà gây loạn can qua, thây phơi máu chảy, ta đọc đến đây mà nghẹn ngào, dẫu còn mà như mất vậy. Ngày xưa Hiên Viên đánh trận ở cánh đồng Trác Lộc; Chu Vũ Vương phát quân đánh ở ấp Thương-Yểm, đều là vì trừ diệt tai hại mà dựng nghiệp vương, không phải là tranh mạnh yếu, chẳng phải là tỏ lòng vui giận vậy. Cho nên dẫu diệt người thân mà vẫn không cho là lo, giết anh em mà không tổn nghĩa. Nay hai ngài mới nối nghiệp lớn, noi theo phép cũ, tiến thì có nỗi lo nghiêng đổ của nhà nước, lùi thì có mối thù oán giận của tiên công, phải nên làm việc giữ nghĩa, cứu giúp nhà nước. Vì sao? Kim-mộc-thổ-thủy-hỏa lấy cứng mềm giúp nhau, rồi mới được hòa hợp, cho dân lấy dùng. Nay anh ngài ở Thanh châu bản tính nóng nảy, lầm lẫn phải trái. Ngài khí độ rộng rãi, khoan dung có thừa, nên lấy lớn giúp bé, lấy tốt giúp kém, nên diệt trừ Tào Tháo trước để rửa mối hận của tiên công; sau khi việc này xong mới ban kế phải trái, cũng chẳng hay hơn sao! Nếu suy nghĩa sâu xa, nhún mình giữ lễ, nên xua quân ruổi dài cùng giúp nhà vua; nếu mê lầm không sửa, trái mà không đổi thì rợ Hồ còn có lời trách hỏi, huống chi là đồng minh? Lúc ấy ai còn gắng sức giúp ngài đánh dẹp đây? Đấy là Hàn Lô-Đông Quách (12) tự gây khốn mà bị người làm ruộng bắt được vậy. Nhảy nhót đứng trông, mong được nghe tin hòa mục. Nếu là lành thì họ Viên sẽ hưng vong với nhà Hán chăng? Nếu là xấu thì đồng minh mãi không còn đứng trông vậy". Đàm-Thượng không nghe. Hán Tấn xuân thu chép thư Thẩm Phối gửi Đàm rằng: "Theo nghĩa kinh Xuân thu, vua của một nước chết với xã tắc, trung thần chết vì mệnh vua. Nếu có mưu gây loạn tông miếu, phá vỡ nhà nước thì đã có kỉ cương phép vua, dẫu thân sơ đều xử như nhau vậy. Cho nên Chu Công rơi lệ mà xử ngục Quản-Sái, Quý Hữu nức nở mà chuốc độc cho chú mình. Vì sao? Nghĩa nặng người nhẹ, đấy là việc bất đắc dĩ vậy. Ngày xưa Vệ Linh Công bỏ Khoái Hội mà lập Khoái Triếp là vì Khoái Hội vô đạo, vào ấp Thích để soán ngôi, do đó Vệ Linh Công đánh hắn. Xuân thu truyện chép: 'Theo nghĩa của Thạch Mạn Cô cũng chống lại được Khoái Hội'. Cho nên Khoái Hội rút cuộc bị phạt tội phản nghịch mà Thạch Mạn Cô có tiếng là trung thần. Cha con còn thế, huống chi là anh em đây? Ngày xưa tiên công phế bỏ tướng quân là vì lấy người hiền thay anh, lập tướng quân ta làm người nối tự, trên cáo tổ tiên, dưới chép vào sách, tiên công gọi tướng quân là cháu, tướng quân cũng gọi tiên công là chú, người gần xa trong nước, ai chẳng biết việc này? Vả lại tiên công đã qua đời, tướng quân ta tạm để tang ở nhà cỏ, mà tướng quân cũng trai giới ở phòng mình, thân phận ra vào đều đã rõ ràng. Bấy giờ nghịch thần là Phùng Kỉ xằng bậy vẽ rắn thêm chân, nói lời siểm nịnh, gây loạn tình thân, do đó tướng quân tỏ nỗi giận đùng đùng, đánh không mấy chốc thì tướng quân cũng vâng mệnh theo ý, bày thêm hình phạt. Từ đó về sau, ung nhọt bị phá, cốt nhục không có chút gây hiềm, những bầy tôi từng nghi ngờ đều giữ được toàn mạng sống. Cho nên rợ Hồ mạnh bạo cũng kén tướng giỏi, sửa sang binh khí, lựa chọn quân sĩ, dốc hết tiền của trong kho tàng, vét sạch lương lực trong bờ cõi để cung cấp cho tướng quân mà không đòi hỏi gì cả. Vua tôi hòa thuận cùng dưới cờ trống, đánh như nhạn bay, thuế đến cho chủ, dẫu kho tàng nghiêng lật, tàn hại dân chúng nhưng trên dưới gắng chịu, không dám nói là khổ. Sao thế? Nghĩ đến tấm lòng son trung thành, dốc kế sách còn để trong bụng ngực, như răng môi, trục xe không mong được thưởng. Bảo là vì tướng quân mà cùng lòng hợp ý, cong thẳng một thể, tất sẽ trổ oai tỏ thế, chống giặc giữ nhà. Thế mà kẻ hung ác siểm nịnh, vu vạ không cùng, dụ dẫn lợi lộc, đến nỗi khiến cho tướng quân chốc lát đổi ý, quên lòng nhân hiếu thuận, nghe mưu của bọn sói lang, gièm lời phế lập của tiên công, trái ngôi vị lúc để tang mới đây, phản lẽ của phép tắc, không xét khí tiết thuận nghịch, mưu đổi chủ của Kí châu, muốn làm người nối nghiệp của tiên công. Rồi phát quân cướp bóc, phá thành giết quan, thây phơi đầy đồng, dân ngã đầy nội, có kẻ phải cắt tóc rạch da, chặt đứt tay chân, oán thán nỉ non ở cõi âm, đau đớn kêu gào ở bụi gai. Lại còn mưu đánh thành Nghiệp, hứa tặng tiền của đàn ba cho người Tần-Hồ, hẹn cùng chia đất. Có kẻ nghe nói tướng quân cáo lệnh quan quân rằng: 'Ta còn có mẹ già, chỉ muốn cho bà ấy được thân thể trọn vẹn mà thôi'. Nghe nói đến đây, chẳng ai không kinh ngạc thất sắc, đau lòng rơi lệ, khiến cho thái phu nhân cũng buồn rầu căm giận ở phòng buồng, chủ tớ quan quân trong châu ta nằm nghỉ cũng than thở, không có chỗ đặt tay chân; nghĩ rằng nếu muốn lặng im suy nghĩ để nghe mưu nắm việc thì sợ trái với khí tiết chết vì mệnh vua trong kinh Xuân thu, gây thêm nỗi lo không cùng của thái phu nhân, tổn cơ nghiệp nhiều đời của tiên công. Vả lại ba quân hăng hái, mọi người đều mang oán, tướng quân ta bất đắc dĩ mới đánh trận ở huyện Quán Đào. Bấy giờ ngoài là chống nạn, trong thực là chịu tội, đã không được tha mà lại đều tỏ hai ba ý, vào trận thì phản loạn. Tướng quân ta tiến lùi đều không có công, đầu đuôi gặp địch, bèn dẫn quân bỏ trốn, không dám từ biệt. Cũng vì tướng quân tỏ lòng nhân của người thân, ban cái ân dừng đuổi cho nên vướng vào vũng lầy, không có chỗ nương thân. Thú khốn thì tất đấu, dốc hết sức mình, mà quân sĩ của tướng quân tan lở thua vỡ, đấy không phải là do sức người, mà còn là ý trời vậy. Từ đó lại mong tướng quân đổi ý sửa tính, cúi mình giữ lễ, lập lại tình thân anh em như xưa; vậy mà vẫn tự ý oán giận, đánh phá nhà cửa, đứng lên nhảy nhót, liên kết giặc ngoài, thổi gió vào lửa, tăng thêm độc hại, khói lửa mù mịt, máu chảy nghìn dặm, nghiêng thành nguy dân, gây thêm oán hờn; dẫu muốn chẳng đánh, há được ngừng sao! Cho nên bèn dẫn quân sang miền đông, giữ gìn bờ cõi, dẫu đến gần lũy nhưng chưa lấn đất đai, chỉ đứng trông cờ tinh, than mãi không thôi! Bọn Phối là bây tôi của tiên công, vâng theo lệnh phế lập. Vậy mà bọn Đồ hại nước loạn nhà, phải phạt theo phép thường. Cho nên phát quân của châu nhỏ này để dẹp trừ cái bệnh của tướng quân. Nếu mà trời có ý giúp, sớm tỏ rõ hình phạt thì tướng quân ta cúi mình kêu gọi ở trên bàn tay của tướng quân, bọn Phối cũng cởi trần lộ thân mà chịu phạt lấy rìu chém. Nếu chẳng sửa lỗi, có ý hại nước, không treo đầu Đồ thì quân ta chẳng dừng. Mong tướng quân nghĩ kĩ việc nên làm để được theo về".
Điển lược chép: Đàm nhận được thư mà thở dài, lên thành mà khóc. Nhưng đã bị Quách Đồ ép, cũng đem quân nhiều lần đánh đấu, rút cuộc đánh không nghỉ.
Thượng nghe tin Thái Tổ lên phía bắc, bèn bỏ quận Bình Nguyên mà về thành Nghiệp, tướng của Thượng là Lữ Khoáng-Lữ Tường phản theo Thái Tổ. Đàm lại ngầm khắn ấn tướng quân trao cho Khoáng-Tường. Thái Tổ biết Đàm dối, bèn gả hôn để làm hắn yên lòng, rồi dẫn quân về. Thượng sai Thẩm Phối-Tô Do giữ thành Nghiệp, lại đánh Đàm ở quận Bình Nguyên. Thái Tổ tiến quân đi đánh thành Nghiệp, đến sông Hoàn cách thành Nghiệp năm mươi dặm; Do muốn làm nội ứng, mưu lộ, đánh với Phối ở trong thành, thua chạy ra theo Thái Tổ. Thái Tổ bèn đến đánh thành, đào hầm đất, Phối cũng dựng lũy ở trong để chống lại. Tướng của Phối là Phùng Lễ mở toang cửa thành, cho hơn ba trăm quân của Thái Tổ vào, Phối biết được, từ trên thành lấy đá to ném phá cửa lũy trong thành; lúc cửa lũy đóng lại, những người đi vào đều bị giết chết. Thái Tổ lại vây thành, đắp lũy xung quanh dài bốn mươi dặm, đào rãnh nước, tỏ ý như vượt qua. Phối thấy mà cười việc ấy, không ra tranh lợi. Thái Tổ một đêm đào rãnh nước, sâu rộng hai trượng, dẫn nước sông Chương chảy vào thành; từ tháng năm đến tháng tám, người trong thành chết đói quá nửa. Thượng nghe tin thành Nghiệp nguy cấp, đem hơn vạn quân về cứu thành, men theo vùng núi phía tây mà đến, sang phía đông đến đình Dương Bình, cách thành Nghiệp bảy mươi dặm, đến gần sông Phũ, đốt lửa lên để cho người trong thành biết, người trong thành cũng đốt lửa để đáp lại. Phối đem quân ra phía bắc thành, muốn cùng Thượng phá vòng vây. Thái Tổ đón đánh Phối, Phối thua rút về, Thượng cũng thua chạy, dựa vào sông Khúc Chương để dựng trại, Thái Tổ bèn vây trại ấy; chưa gặp, Thượng sợ, sai Âm Quỳ-Trần Lâm ra xin hàng, Thái Tổ không nghe. Thượng chạy về cửa Lạm Khẩu; Thái Tổ lại gấp đến vây Thượng, tướng của Thượng là bọn Mã Diên vừa vào trận liền xin hàng, quân của Thượng tan vỡ, Thượng trốn đến quận Trung Sơn. Thái Tổ thu hết đồ xe nặng, lấy được ấn thao, tiết việt và đồ áo của Thượng đem cho người nhà của Thượng biết, do đó người trong thành vỡ lở. Con anh của Phối là Vinh giữ của đông thành, buổi đem mở cửa cho quân của Thái Tổ vào, đánh với Phối ở trong thành, bắt sống Phối. Phối nói lời tráng liệt, cuối cùng chẳng chịu phục, người xem chẳng ai không than thở, bèn chém Phối.
Tiên hiền hành trạng chép: Phối tự Chính Nam, người quận Ngụy. Thủa trẻ trung liệt khảng khái, có khí tiết không thể đổi. Viên Thiệu lĩnh Kí châu, tin dùng làm tim bụng, cho làm Trị trung biệt giá, coi quản phủ trướng. Trước đây, Đàm bỏ đi, đều gọi người nhà của Tân Bì-Quách Đồ đi theo nhưng riêng người nhà của Tần Bì không chịu đi. Kịp lúc con anh của Phối mở cửa thành đón quân ngoài vào, bấy giờ Phối ở trên lầu tại góc đông nam thành, nhìn thấy quân của Thái Tổ vào, giận Tân-Quách phá hỏng Kí châu, bèn sai người đi nhanh đến nhà ngục trong thành Nghiệp, bắt giết người nhà của Trọng Trị. Bấy giờ Tân Bì ở trong quân, nghe tin cửa thành mở, chạy nhanh đến nhà ngục, muốn cứu người nhà của anh mình, nhưng người nhà của anh đã chết. Hôm đó bắt sống Phối, đem đến dưới trướng, bọn Tân Bì chặn lại lấy roi ngựa đánh vào đầu Phối, mắng Phối rằng: "Thằng nô kia, hôm nay mi chết chắc rồi"! Phối ngoảnh lại nói: "Bọn chó! Cũng vì bọn mi phá Kí châu, ta hận không giết được bọn mi vậy! Vả lại bọn mi hôm nay giết được ta sao"! Chốc lát, Tào Công dẫn vào gặp, bảo Phối rằng: "Có biết ai mở của thành của khanh không"? Phối nói: "Không biết được". Nói: "Từ cháu khanh là Vinh vậy". Phối nói: "Thằng nhỏ kia không đáng được dùng nên mới thế"! Tào Công lại bảo rằng: "Khi trước ta đến vây thành, sao lại nỏ bắn nhiều thế"? Phối nói: "Chỉ hận còn ít"! Tào Công nói: "Khanh trung với cha con họ Viên, cũng là không được không như thế". Có ý muốn cho hắn sống. Phối đã không chịu phục, lại nữa bọn Tân Bì kêu khóc không thôi, bèn giết Phối. Trước đây, người Kí châu là Trương Tử Khiêm hàng trước, vốn không hòa với Phối, cười bảo Phối rằng: "Chính Nam, khanh sao bằng được ta"? Phối lớn tiếng nói: "Mi là tên giặc phản hàng, Thẩm Phối là tôi trung, dẫu chết nhưng há sống như mi sao"! Sắp chịu chết, quát bọn lính cầm giữ sai phải để đầu hướng về phía bắc, nói: "Chủ ta ở miền bắc". Sơn Âm Công tái kí của Nhạc Tư và Hiến Đế xuân thu của Viên Diệp đều chép: Quân của Thái Tổ vào thành. Thẩm Phối đánh ở trong cửa, đã thua, trốn ở trong giếng, bắt được Phối ở giếng. Thần là Tùng Chi cho rằng: Phối là tráng sĩ một thời, là tôi chịu chết của họ Viên, há vào ngày vận cùng mà trốn mình ở trong giếng? Việc này khó tin, nhưng kể ra cũng dễ như thế. Không biết bọn Tư-Diệp là người thế nào, chưa phân biệt được đúng sai mà lại khinh thường viết bút mực, xằng bậy bày ra điều quái lạ để chép vào sách mình. Cách chép như thế, đấy là nói gièm mà không chịu nghe nhìn, khiến cho người đời sau nghi ngờ. Đấy là việc có lỗi với sách vở, là điều mà kẻ soạn sách không nên làm vậy.
Cao Cán đem cả dân Kí châu hàng, lại lấy Cán làm Thứ sử.
Vào lúc Thái Tổ vây thành Nghiệp thì Đàm cướp lấy các nơi Cam Lăng-An Bình-Bột Hải-Hà Gian, đánh Thượng ở Trung Sơn. Thượng chạy đến huyện Cố An theo Hi; Đàm thu hết quân của Thượng. Thái Tổ đến đánh Đàm, Đàm bèn đánh lấy quận Bình Nguyên, chiếm huyện Nam Bì, tự đóng trại ở huyện Long Thấu. Tháng mười hai, (năm Kiến An thứ chín) Thái Tổ đem quân đến cửa trại của Đàm, Đàm không ra, buổi đêm lẻn trốn đến Nam Bì, rồi đến quận Thanh Hà mà đóng trại. Tháng giêng năm (Kiến An) thứ mười, (năm 205 Công nguyên) Thái Tổ đánh lấy trại, chém bọn Đàm và Đồ. Hi-Thượng bị tướng của mình là Tiêu Xúc-Trương Nam đánh, trốn đến chỗ người Ô Hoàn ở quận Liêu Tây. Xúc tự hiệu làm U châu Thứ sử, thống lĩnh các quan Lệnh trưởng-Thái thú của các quận phản họ Viên theo họ Tào, bày mấy vạn quân, giết ngựa trắng để thề, lệnh rằng: "Kẻ trái lệnh thì chém"! Mọi người chẳng ai dám nói, đều lấy máu uống thề. Đến chỗ Biệt giá Hàn Hành, Hành nói: "Ta nhận ân dày của cha con họ Viên, nay sắp phá diệt, nếu có trí mà chẳng cứu được, có dũng mà không chết cùng, thì về nghĩa là sai vậy. Nếu ngoảnh mặt về phía bắc theo họ Tào thì ta chẳng làm được". Mọi người ngồi đều vì Hành mà thất sắc. Xúc nói: "Đã làm việc lớn thì nên giữ nghĩa lớn, việc thành hay không chẳng phải do ở một người, nên theo ý của Hành để khuyến khích việc thờ chủ". Cao Cán phản, bắt Thượng Đảng Thái thú, đem binh giữ cửa Hồ Khẩu; Thái Tổ sai Nhạc Tiến-Lí Điển đánh hắn, không thắng. Tháng mười một, Thái Tổ đánh Cán, Cán bèn giữ tướng của mình là Hạ Chiêu-Đặng Thăng giữ thành, rồi tự đến chỗ Thiền vu của của người Hung Nô xin cứu, không được, một mình cùng mấy quân kị chạy trốn, muốn xuống phía nam đến Kinh châu; Thượng Lạc Đô úy bắt chém Cán.
Điển lược chép: Thượng Lạc Đô úy Vương Diễm bắt được Cao Cán, xét công phong Hầu; vợ của Diễm khóc ở trong phòng, cho là Diễm giàu có rồi sẽ lấy thê thiếp mà bỏ sủng ái mình vậy.
Năm (Kiến An) thứ mười hai, (năm 207 Công nguyên) Thái Tổ đến quận Liêu Tây đánh người Ô Hoàn. Thượng-Hi cùng người Ô Hoàn đem quân đón đánh, thua chạy đến quận Liêu Đông, bị Công Tôn Khang dụ bắt chém, đem đầu đến.
Điển lược chép: Thượng là người có sức khỏe, muốn đoạt lấy quân của Khang, mưu với Hi rằng: "Nay đến đây, Khang tất gặp nhau. Ta muốn cùng anh bắt lấy hắn. Có được quận Liêu Đông vẫn tự mở rộng được vậy". Khang cũng tự mưu nói: "Nay không bắt Hi-Thượng thì không biết nói gì với nhà nước". Bèn đặt quân tinh nhuệ ở trong chuồng ngựa, rồi mời Hi-Thượng. Hi-Thượng vào, quân phục của Khang xổ ra, đều bắt trói bọn Thượng, cho ngồi đất băng. Thượng lạnh, xin ngồi chiếu, Hi nói: "Đầu sọ sắp rời đến chỗ vạn dặm rồi, xin chiếu chi nữa"! Bèn chém đầu. Đàm tự Hiển Tư. Hi tự Hiển Dịch. Thượng tự Hiển Phủ. Ngô thư chép: Thượng có em trai tên là Mãi, cùng với Thượng chạy đến Liêu Đông. Tào Man truyện chép: Mãi là em của anh Thượng. Chưa rõ.
Thái Tổ khen khí tiết của Hàn Hành, nhiều lần mời mà không đến, chết ở nhà.
Tiên hiền hành trạng chép: Hành tự Tử Bội, người quận Đại. Trong sạch lại nhã nhặn. Thủa trẻ mất cha mẹ, kính thuận anh chị, họ hàng khen là hiếu đễ.
Chú thích:
(1) Chủ minh: chỉ việc đứng đầu hội thề. Bấy giờ hào kiệt của miền Sơn Đông hội thề để đánh Đổng Trác, tôn Thiệu làm chủ minh.
(2) Trác sang phía tây vào cửa quan: chỉ việc Trác dời đô từ Lạc Dương sang phía tây vào cửa quan Hàm Cốc mà đến thành Tràng An.
(3) Hà bá: chỉ thần sông.
(4) Quân 'bạch mã nghĩa tòng': tức quân theo nghĩa cưỡi ngựa trắng.
(5) Vận hỏa suy kiệt, họ Viên là dòng dõi của vận thổ: ý nói nhà Hán của họ Lưu thuộc vận hỏa đã suy kiệt, họ Viên thuộc vận thổ sẽ nối thay.
(6) 'Thập vây ngũ công': ý nói theo binh pháp thì quân nhiều hơn địch mười lần mới vây, nhiều hơn địch năm lần mới đánh.
(7) Mạc phủ: chỉ phủ trướng của Viên Thiệu. Lúc đầu Thiệu tự hiệu làm Xa kị tướng quân, chủ minh, lập ra phủ trướng để thống lĩnh quân hào kiệt của miền Sơn Đông đi đánh Đổng Trác.
(8) Bỏ xấu chọn dùng: ý nói thời loạn cần dùng người, dẫu người xấu thì cũng gạt bỏ tiếng xấu cũ của người đó mà chọn dùng.
(9) Phát khâu trung lang tướng, Mô kim hiệu úy: là những chức quan do Tào Tháo đặt ra, coi việc đào mộ cổ để lấy vàng bạc châu báu ở trong mộ.
(10) Chính sự phiền hà: chỉ chính sự rườm rà, khắc bạo.
(11) Trung Hoàng-Dục-Hoạch: Trung Hoàng là Trung Hoàng Bá, Dục là Hạ Dục, Hoạch là Ô Hoạch, đều là những dũng sĩ thời cổ, có sức khỏe hơn người.
(12) Hàn Lô-Đông Quách: Hàn Lô tức Hàn Tử Lô, là một con chó nổi tiếng khỏe mạnh; Đông Quách là Đông Quách Thuân, là con thỏ nổi tiếng khôn ngoan. Theo Chiến quốc sách kể câu chuyện rằng: Hàn Lô đuổi Đông Quách ba vòng quanh, năm lần trèo lên núi, hai con ra sức chạy, cuối cùng đều mệt mỏi mà chết ở dưới núi. Lúc đó có người làm ruộng thấy mà bắt được mà không khó khọc gì. Ý nói hai bên đều mệt thì bên thứ ba được lợi vậy.
Post a Comment