Đổng Tập Truyện
Đổng Tập tự Nguyên Đại người vùng Dư Diêu thuộc Cối Kê(1), mình cao tám thước, oai phong mạnh mẽ hơn người
Hậu Hán Thư của Tạ Thừa(2) khen Tập ý chí khí tiết khẳng khái hiên ngang, oai vũ mạnh mẽ phong độ hào hùng.
Tôn Sách tới Cối Kê, Tâp ra nghênh đón tận Cao Thiên Đình. Sách thấy là người kỳ vĩ, khi đến nơi xếp đặt làm Tắc Tào(3) ở dưới trướng. Đương thời núi Âm Sơn vốn là nơi bọn giặc cướp Hoàng Long La, Chu Bột tụ tập, bè lũ có đến nghìn người. Sách tự mình ra đánh dẹp. Tập đi theo, chém được đầu La và Bột, khi về được bái làm Biệt Bộ Tư Mã, thống lĩnh hàng nghìn quân, sau chuyển làm Dương Vũ Đô Uý. Rồi Tập lại theo Sách đi đánh đất Hoàn, lại theo thảo phạt Lưu Huân ở Tầm Dương, đánh Hoàng Tổ ở Giang Hạ.
Sách hoăng. Quyền còn ít tuổi, vừa mới thống lĩnh công việc. Thái Phi(4) lấy làm lo lắng, gọi Trương Chiêu cùng bọn Tập đến gặp, hỏi Giang Đông có thể giữ yên chăng. Tập đáp rằng: ''Giang Đông có núi sông bền vững mà Thảo Nghịch Tướng Quân(5) sáng suốt, tạo ra ơn đức cho dân. Thảo Lỗ Tướng Quân(6) kế thừa cơ nghiệp, lớn nhỏ dùng mệnh lệnh để sai khiến. Có Trương Chiêu giữ vững công việc, dùng bọn Tập làm nanh làm vuốt. Địa lợi nhân hoà ấy vào buổi bây giờ nghìn vạn lần không phải lo gì.'' Mọi người đều khâm phục lời Tập nói.
Bọn giặc ở Bà Dương là Bành Hổ đông đến vạn người. Tập cùng Lăng Thống, Bộ Chất, Tưởng Khâm các người chia đường thảo phạt. Hương của Tập đánh luôn luôn thắng, bọn Hổ trông thấy kỳ hiệu từ xa đã lập tức bỏ chạy tan rã, trong vòng mười ngày đã bình định xong hết. Tập được làm Uy Việt Hiệu Uý rồi đổi thành Thiên Tướng Quân.
Năm Kiến An thứ mười ba, Quyền đánh Hoàng Tổ. Tổ xoay ngang mấy chiếc Mông Trùng(7) hợp lại với nhau để phòng thủ Miên Khẩu(8), lấy thừng lớn kết từ cây cọ buộc đá làm neo. Trên Mông Trùng xếp đặt nghin người cầm nỏ cứng cùng lúc bắn xuống, tên bay như mưa. Quân của Quyền không tiến lên được. Tập với Lăng Thống cùng đi tiên phong, tướng tá tuỳ tùng cảm tử mà đánh có trăm người, thân đều mặc hai lần giáp, cưỡi trên thuyền mành, đột nhập vào bên trong dẫy Mông Trùng. Tập tự dùng đao chém đứt dây neo, Mông Trùng cứ xoay ngang thế mà trôi xuôi theo dòng. Đại quân của Quyền nhân đó tiến lên. Tổ liền mở của thành mà chạy, bị quân đuổi theo chém chết. Trong bữa tiệc lớn hôm sau, Quyền nâng chén bảo Tập rằng: ''Yến hội hôm nay là để mừng công chém dây neo đó.''
Tào Công ra đánh Nhu Tu, Tập theo Quyền đến chống cự. Quyền sai Tập đốc xuất Ngũ Lâu Thuyền ở Nhu Tu Khẩu. Đang đêm bỗng có gió lớn, Ngu Lâu Thuyền nghiêng ngả, tả hữu tan tác chạy sang thuyền nhỏ, xin Tập rời Ngũ Lâu Thuyền. Tập giận nói: ''Ta nhận trách nhiệm làm tướng quân, nay gặp lúc có giặc, sao có thể là loại bỏ sự uỷ thách mà đi. Ai dám nói lời như thế nữa thì chém!'' Vì vậy không ai dám khuyên can nữa. Đêm ấy thuyền sụp. Tập chết. Quyền thay đổi trang phục đến điếu tang, lại chu cấp rất hậu cho người nhà Tập.
Chú thích:
(1) Dư Diêu: Nay là huyện Dư Diêu tính Triết Giang, Trung Quốc.
(2) Hậu Hán Thư của Tạ Thừa: Bộ này do Tạ Thừa em rể Tôn Quyền soạn, nay đã thất truyền khác với bộ do Phạm Diệp đời Lưu Tống soạn.
(3) Tặc Tào: Chức danh, phụ trách việc đánh bắt trộm cướp trong quân huyện.
(4) Thái Phi: Vợ Tôn Kiên.
(5) Thảo Nghịch Tướng Quân: Chỉ Tôn Sách.
(6) Thảo Lỗ Tướng Quân: Chỉ Tôn Quyền, đây là danh hiệu chính thức được triều đình phong của hai anh em Sách và Quyền.
(7) Mông Trùng: Chiến thuyền di chuyển rất nhanh, thân bọc da trâu, trên đặt nỏ lớn tiện dụng cả tấn công và phòng thủ, rất được ưa chuộng trong thuỷ chiến ở khu vức trường Giang giai đoạn Tam Quốc.
(8) Miện Khẩu: Cũng là Hạ Khẩu, Hán Khẩu, Lỗ Khẩu là nơi Hán Thuỷ chảy vào Trường Giang.
Post a Comment