Header Ads

Đỗ Kỳ Truyện


Đỗ Kì tự Bá Hầu, người huyện Đỗ Lăng quận Kinh Triệu.

Phó Tử chép: Kì là dòng dõi của Ngự sử Đại phu Đỗ Diên Niên thời nhà Hán(1). Cha của Diên Niên là Chu, từ quận Nam Dương dời đến huyện Mậu Lăng, đến thời Diên Niên lại chuyển đến huyện Đỗ Lăng, con cháu nối theo ở đó. 

Thủa nhỏ cô, bị mẹ kế làm khổ, nhưng vẫn giữ đạo hiếu mà nổi tiếng. Năm hai mươi tuổi, làm quan Công tào trong quận, giữ chức Trịnh Huyện Lệnh. Trong huyện có mấy trăm người tù, Kì tự thân đến ngục, cân nhắc nặng nhẹ, thả ra hết mà sai khiến, dẫu chưa đúng cả nhưng người trong quận khen Kì tuổi trẻ mà có ý rộng lượng vậy. Cử Hiếu liêm, bái làm Hán Trung Phủ thừa.


Gặp lúc thiên hạ loạn, bèn bỏ quan làm khách ở Kinh Châu, đến giữa năm Kiến An lại về. Tuân Úc tiến cử Kì cho Thái Tổ, Phó Tử chép: Kì từ Kinh Châu về quê, sau đó đến đất Hứa, gặp Thị trung Cảnh Kỉ, nói chuyện cả đêm. Thượng thư lệnh Tuân Úc ở phòng bên với Kỉ, buổi đêm nghe Kì nói, khen lạ, đến sáng sai người bảo Kỉ nói: "Có kẻ sĩ hay mà không tiến cử, lấy gì mà coi việc"? Rồi gặp Kì, thân Kì như người quen biết cũ, liền tiến cử Kì với triều đình.

Thái Tổ lấy Kì làm Tư không Tư trực, chuyển làm Hộ Khương Hiệu úy, Sứ trì tiết, lĩnh chức Tây Bình Thái thú.

Ngụy lược chép: Thủa trẻ Kì có chí lớn. Ở tại Kinh Châu vài năm, sau khi mẹ kế chết, thấy vùng Tam phụ thông suốt, đem tang mẹ kế về phía bắc, trên đường đi bị giặc bắt cướp, mọi người bỏ chạy, chỉ Quỳ không chạy, giặc xét cướp, Kì xin giặc nói: "Các ngươi muốn lấy tiền mà thôi. Nay ta không có tiền, xét cướp ta làm gì được"? Giặc bèn thôi. Kì đến quê nhà, Kinh Triệu Doãn người quận Hà Đông là Trương Thì, có quen biết Kì, cho làm Công tào. Từng hiềm vì Kì rộng rãi, không chú ý giúp làm các việc, nói là người này xuềnh xoàng, không hợp làm Công tào. Kì nói kín rằng: "Không hợp làm Công tào, nhưng hợp làm Hà Đông Thái thú vậy". 

Thái Tổ đã định miền Hà Bắc, mà Cao Cán lại lĩnh quân Tinh Châu làm phản. Bấy giờ Hà Đông Thái thú Vương Ấp bị gọi về, người quận Hà Đông là Vệ Cố, Phạm Tiên ngoài mặt thì lấy danh xin ý của Ấp, nhưng trong lòng thì thực là thông mưu với Cán. Thái Tổ bảo Tuân Úc rằng: "Các tướng miền Quan Tây cậy vào chỗ hiểm và quân mã, tất sẽ gây loạn. Vươn ra cướp miền Hào, Mẫn(2), phía nam qua lại với Lưu Biểu, nếu bọn Cố nhân thế ấy thì ta sợ chúng gây hại lớn, quận Hà Đông có sông bao núi bọc, bốn bề nhiều biến, là chỗ trọng yếu của thiên hạ thời nay vậy. Ông hãy giúp ta cử người như bọn Tiêu Hà, Khấu Tuân để giữ đất ấy". Úc nói: "Đỗ Kì là người ấy vậy".

Phó Tử chép: Úc khen Kì có dũng đủ để trừ nạn lớn, có trí có thể ứng biến, người này nên được dùng thử. 

Do đó liền bái Kì làm Hà Đông Thái thú. Bọn Cố sai mấy nghìn quân chặn ở bờ sông huyện Thiểm, Kì đến không qua được, Thái Tổ sai Hạ Hầu Đôn đánh chỗ ấy. Chưa đến, có người bảo Kì rằng: "Nên lĩnh đại quân đi ngay". Kì nói: "Quận Hà Đông có ba vạn hộ không phải đều muốn làm loạn. Nay quan quân đuổi đánh gấp, đấy là muốn làm việc tốt nhưng không có chủ, tất sợ mà nghe theo Cố. Khi đó bọn Cố được thế, tất liều chết mà đánh. Nếu đánh không thắng chúng thì bốn bề ứng theo chúng, cái thế biến của thiên hạ chưa dừng được vậy; nếu đánh thắng chúng thì cũng chỉ trừ được dân của một quận mà thôi. Vả lại bọn Cố chưa rõ ý cắt đứt mệnh vua, ngoài mặt thì lấy danh là xin ý của chủ cũ, tất không hại chủ mới. Ta nên đi xe đến thẳng, ra chỗ chúng không ngờ tới. Cố là người nhiều mưu kế mà không quyết đoán, tất bị ta lừa. Ta được ở quận một tháng, đem kế mà vỗ về chúng, cũng đủ vậy". Bèn vờ đi đường theo lối qua bến Đậu Tân. Đậu, đọc là 'đậu'.

Ngụy lược chép: Lúc trước, thủa trẻ Kì lấn ép nhau với Vệ Cố, Cố từng coi khinh Kì. Kì từng đánh cờ và tranh nước cờ với Cố, Kì từng bảo Cố rằng: "Trọng Kiên, ta sắp làm quan của quận Hà Đông vậy". Cố vén áo mắng Kì. Đến lúc Kì nhận chức, mà Cố làm quan Công tào trong quận. Trương Thì ngày trước làm quan ở quận Kinh Triệu, Kì đón quan Tư lệ, hội với Thì ở Hoa Âm. Lúc Thì, Kì gặp nhau, theo phép tắc đều đi ngang. Thì than rằng: "Ngày trước làm Công tào, ngày nay lại làm Quận thú rồi"! Phạm Tiên muốn giết Kì để ra oai với quân.

Phó Tử chép: Tiên nói: "Đã muốn làm hổ mà lại ghét ăn thịt người, đấy chẳng phải là làm hổ vậy. Nay không giết, tất để nỗi lo về sau".

Lại xem Kì đi lại, chém hơn ba mươi người từ quan Chủ bạ trở xuống ở dưới cửa thành, Kì vẫn cử động tự nhiên. Do đó Cố nói: "Giết hắn chẳng tổn hại gì, chỉ có để tiếng xấu; vả lại quyền ngăn chế ở tay ta rồi". Bèn vâng lập Kì làm Thái thú. Kì bảo Vệ Cố, Phạm Tiên rằng: "Vệ, Phạm là họ nổi tiếng của quận Hà Đông, ta trông vào họ mà thôi. Nhưng trên dưới có phép tắc, cùng chung thành bại, nên cùng bàn bạc việc lớn". Lấy Cố làm Đô đốc, làm việc Quận thừa, giữ chức Công tào; có hơn ba nghìn quan quân tướng lĩnh, đều cho Phạm Tiên trông coi. Do đó bọn Cố mừng, dẫu vâng giúp Kì, nhưng không chú ý. Cố muốn phát đại quân, Kì lo lắng, khuyên Cố rằng: "Muốn làm việc khác thường, không nên làm động lòng người. Nay phát đại quân, lòng người tất loạn, không bằng thong thả để chiêu mộ quân sĩ". Cố cho là phải, nghe theo, rồi ra lệnh kêu gọi, mấy chục ngày sau mới yên, trong các tướng có nhiều người vâng theo nhưng ít người sai quân đến, lại vào bảo bọn Cố rằng: "Lòng người hướng về nhà, các quan tướng trong quận nên sai về nghỉ ngơi, mau hoãn kêu gọi họ để tránh bị họa". Bọn Cố ghét việc làm trái ý mọi người, lại nghe theo. Do đó người tốt ở ngoài ngầm giúp thân mình, kẻ ác tản mát, đều về nhà mình, quân sĩ lìa tan. Gặp lúc giặc Bạch kị(3) đánh huyện Đông Hoàn, Cao Cán vào huyện Hoạch Trạch, người các huyện của quận Thượng Đảng giết trưởng lại, người quận Hoằng Nông bắt giữ quan Thái thú, bọn Cố ngầm điều binh sắp đến. Kì biết người các huyện theo mình, nhân đó đi ra, đem riêng mấy chục quân kị, đến chỗ hẻo lánh chống giữ, quan dân đều đem người trong thành ra giúp Kì, gần mấy chục ngày thu được hơn bốn nghìn người. Bọn Cố cùng với Cán, Thịnh đánh Kì, không thắng, lại cướp các huyện, cũng không được. Vừa lúc đại quân đến(4), Cán, Thịnh thua, bọn Cố bị giết, phe đảng còn lại đều cho thả ra, sai về làm nghiệp cũ.

Bấy giờ, quận huyện trong thiên hạ đều bị đổ vỡ, quận Hà Đông được định sớm nhất, ít tổn hại. Kì trị quận, ưa dùng ân huệ, không gây khó với dân. Có người dân từng kiện tụng, có kẻ đến báo, Kì tự gặp kể rõ nghĩa lớn, sai về nhà suy nghĩa việc ấy, nếu chưa suy nghĩ hết ý nghĩa thì lại đến phủ hỏi. Các bậc già cả trong thôn ấp tự trách tha lẫn nhau nói: "Có ông như thế, sao lại không vâng giáo hóa"? Từ đấy ít có kiện tụng. Hạ lệnh các huyện, cử người con có hiếu, đàn bà trinh tiết, người cháu kính thuận, tha cho lao dịch, tùy lúc mà an ủi họ. Lại sai dân nuôi trâu cái, ngựa cái, cho đến các loài heo con, gà, lợn, chó, đều có phép tắc. Trăm họ chăm chỉ, nhà nhà no đủ. Kì lại nói: "Dân đã giàu đủ thì không thể không giảng dạy". Do đó suốt tháng sửa giáp giảng võ, lại dựng nhà học, tự thân cầm sách giảng dạy, do đó trong quận sửa hóa.

Ngụy lược chép: Kẻ sĩ học rộng là Nhạc Tường, do Kì dạy mà nổi danh. Đến nay quận Hà Đông có nhiều nhà Nho là do từ Kì vậy.

Hàn Toại, Mã Siêu làm phản, trong quận Hoằng Nông, Phùng Dực có nhiều người đem quân trong huyện ấp để ứng theo chúng. Quận Hà Đông dẫu liền kề với giặc nhưng dân không có lòng khác. Thái Tổ sang miền tây đánh dẹp đến huyện Bồ Bản, cách sông Vị đối trận với giặc, lương thực cho quân đều trông vào quận Hà Đông. Đến lúc giặc bị phá, còn chứa được hơn hai mươi vạn hộc. Thái Tổ hạ lệnh rằng: "Hà Đông Thái thú Đỗ Kì, Khổng Tử từng nói rằng: 'Đối với vua Vũ, ta chẳng có gì bàn nữa vậy'(5). Nay tăng lộc hai nghìn thạch". Thái Tổ đánh quận Hán Trung, sai năm nghìn người vận lương, người vận lương tự khích lệ nhau rằng: "Người ta sống có một lần chết, không nên phụ phủ quân của chúng ta". Rút cuộc chẳng một người bỏ trốn, Kì được lòng người như thế.

Đỗ thị Tân thư chép: Bình lỗ Tướng quân Lưu Huân được Thái Tổ tin dùng, quý hiển lừng triều đình, từng đến chỗ Kì xin quả táo lớn, Kì lấy việc khác từ chối. Sau đó Huân bị tội, Thái Tổ lấy được thư của Huân, than rằng: "Đỗ Kì có thể gọi là người 'không a dua theo kẻ quyền thế' vậy". Khen đức sáng của Kì, hạ lệnh châu quận, nói: "Ngày xưa Trọng Ni đối với Nhan Tử, hễ nói không thể không than, khen đã dạt dào tình cảm, lại như con ngựa khỏe đầu đàn ngựa. Nay ta cũng mong mọi người ngưỡng núi cao, trông đường lớn vậy".

Nước Ngụy đã dựng, lấy Kì làm Thượng thư. Việc yên, lại có lệnh rằng: "Ngày xưa Tiêu Hà định miền Quan Trung, Khấu Tuân bình quận Hà Nội, khanh có cái công ấy, từng muốn trao chức quan can gián cho khanh, nhưng xét thấy quận Hà Đông là quận đùi tay của nước ta, là chỗ giàu có, đủ để ngăn chế thiên hạ, cho nên phiền khanh ở lại giữ lấy quận ấy". Kì ở tại quận Hà Đông mười sáu năm, thường là quan giỏi đứng đầu thiên hạ.

Văn Đế lên ngôi Vương, ban tước Quan nội hầu, gọi về làm Thượng thư. Đến lúc lên ngôi, tiến phong Phong Lạc Đình Hầu, thực ấp trăm hộ,

Ngụy lược chép: Lúc trước Kì ở tại quận, nhận thư bắt gọi đàn bà. Bấy giờ tại quận khác có nơi cho tự lấy chồng lần nữa, dựa vào thư mà bắt chở đi, do đó tiếng kêu khóc vang rộ đường đi. Kì chỉ bắt chở kẻ góa, cho nên ít người bị chở đi; đến lúc Triệu Nghiễm thay Kì thì bắt chở nhiều người đi. Văn Đế hỏi Kì rằng: "Lúc trước sao ít người bị chở đi, nay sao lại nhiều"? Kì đáp nói: "Người mà bị thần chở đi lúc trước đều là vợ của người chồng đã mất, nay Nghiễm chở vợ của người chồng còn sống vậy". Đế và tả hữu nhìn nhau mà mặt biến sắc.

giữ chức Tư lệ Hiệu úy. Đế đánh nước Ngô, lấy Kì làm Thượng thư Bộc xạ, ở lại coi việc. Sau đó Đế đến Hứa Xương, Kì cũng ở lại giữ. Vâng chiếu làm thuyền lầu cho vua, thử thuyền ở sông Đào, gặp gió chìm chết. Đế vì thế rơi nước mắt.

 Ngụy thị Xuân thu chép: Lúc trước, Kì từng gặp một đứa trẻ bảo Kì rằng: "Thần Tư mệnh(6) sai ta đến gọi ngài". Kì cố xin đứa trẻ, đứa trẻ nói: "Nay sẽ giúp ngài tìm chọn người nối thay". Nói xong, chợt không thấy nữa. Đến đây là hai mươi năm rồi, Kì mới nói ra. Hôm ấy thì chết, bấy giờ sáu mươi hai tuổi.

 Hạ chiếu nói: "Ngày xưa Minh chăm làm việc quan mà chết dưới sông, Tắc chăm trồng lúa mà chết trên núi.

Vi Chiêu chú giải sách Quốc ngữ có dẫn Mao thi truyện chép: Minh là cháu đời thứ sáu của Tiết(7) vậy, làm chức quan trông coi về sông nước thời nhà Hạ, chăm làm việc quan mà chết ở dưới sông. Tắc là Khí(8) của nhà Chu vậy, chăm chỉ trông lúa, chết ở trên núi bên sông Hắc.

Thượng thư Bộc xạ Đỗ Kì ngày trước thử thuyền ở bến Mạnh Tân, bèn bị chìm đắm, thật là trung vậy. Trẫm rất thương xót". Truy tặng chức Thái bộc, thụy là Đái Hầu. Con là Thứ nối tự.

Phó tử chép: Kì thân thiện với Thái bộc Lí Khôi, An Lạc Thái thú Quách Trí. Con Khôi là Phong giao kết với bọn anh hào, có tài trí nổi danh thiên hạ. Con Trí là Xung trong có tài cán mà ngoài chẳng có phong thái, người trong châu chẳng khen. Kì làm Thượng thư Bộc xạ, hai người đều đem con cháu đến gặp Kì. Rồi về, Kì than rằng: "Hiếu Ý(9) không có con, không chỉ không có con mà thôi, mà còn không có nhà nữa. Quân Mưu(10) là không chết vậy, con đủ để nối nghiệp được". Người thời ấy đều cho rằng Kì xét lầm. Nhưng sau khi Khôi chết, Phong làm Trung thư lệnh, cha con anh em đều bị giết, Xung làm Đại Quận Thái thú, rút cuốc nối được nghiệp của cha; người đời lúc ấy mới phục tàu biết nhìn người của Kì. Ngụy lược chép tên cha của Lí Phong là Nghĩa, so với sách này không giống, có lẽ tên Nghĩa là tên khác của Khôi vậy.

Thứ tự Vụ Bá, giữa năm Thái Hòa làm Tán kị Hoàng môn Thị lang.

Đỗ thị Tân thư chép: Thủa trẻ Thứ cùng với người quận Phùng Dực là Lí Phong cùng nối nghiệp của cha, lại cùng thân thiện. Đến lúc thành người lớn, Phong có gắng tu sửa đức hạnh để mong được nổi tiếng, mà Thứ lại xông xênh thẳng thắn, khác biệt với Phong. Phong bèn nổi tiếng một thời, bọn kẻ sĩ ở kinh đô phần nhiều đến chơi với Phong. Nhưng có người quyền quý rằng danh tiếng của Phong quá xa so với thực tế, lại cho rằng Thứ mặc áo sơ đeo ngọc vậy. Do đó mà không Phong ưa thích. Thứ cũng cho là tự nhiên, không gắng tu hạnh để theo thời. Phong đã làm cao ở triều đình, mà Thứ vẫn ở nhà tự vui. Minh Đế thấy Thứ là con của đại thần, gọi đến bái làm Tán kị Thị lang. Được mấy tháng, chuyển làm Hoàng môn Thị lang.

Thứ lấy thành thật làm tính, không trau chuốt vẻ ngoài, thủa nhỏ không được nổi tiếng. Đến lúc vào triều đình, cũng không giao kết riêng, dốc lòng làm việc công. Hễ có việc được mất, thường dẫn phép tắc để nói thẳng, do đó được Thị trung Tân Bì kính trọng.

Bấy giờ từ bậc công khanh trở xuống bàn luận việc tổn ích, Thứ cho rằng: "Quan Thứ sử thời xưa đã vâng theo sáu điều(11), giữ tiếng trong sạch, nêu rõ uy phong. Ngày nay chớ cho lĩnh quân để chuyên chú vào việc trị dân".

Ra làm Hoằng Nông Thái thú, được mấy năm lại chuyển làm Triệu Tướng,

Ngụy lược chép: Thứ ở tại quận Hoằng Nông, khoan hòa có đức độ. Đến lúc chuyển, lấy Mạnh Khang thay Thứ làm Hoằng Nông Thái thú. Khang tự Công Hưu, người quận An Bình. Giữa năm Hoàng Sơ, vì có quan hệ họ ngoại với Quách Hậu, do đó được ban bái lễ thân thích, bèn chuyển làm Tán kị Thị lang. Bấy giờ, quan Tán kị đều là người có đạo Nho anh tài mà được chọn, mà riêng Khang vì là họ hàng mà được ở trong đó, cho nên người thời ấy đều cùng coi thường Khang, gọi là A Cửu. Khang vốn không có tài cán, nhân lúc chờ đợi làm quan, chuyên đọc rộng sách truyện, sau đó bèn có người xét hỏi, văn nghĩa hay đẹp lại trọng yếu, mọi người liền mới vừa lòng. Giữa năm Chính Thủy, ta làm Hoằng Nông Thái thú, lĩnh chức Điển nông Hiệu úy. Khang đến làm quan, trong sạch theo phép, khen kẻ thiện nhưng lại thương kẻ không có năng lực, giảm bớt tù ngục, theo điều mà dân muốn, nhân đó mà lợi cho dân. Quận lĩnh hơn hai trăm quan lại, bèn giảm cho về nghỉ, thường có bốn người thì sai một người về. Việc không ứ động, lúc ra xét án đều răn bảo quan Đốc bưu phải công bằng, không được cho quan thuộc sai người dò xét, sửa nắn lễ kính. Lại không muốn làm phiễn nhiều quan dân, thường răn bảo quan quân, khi đi đều cầm liềm, đến đâu cũng cắt cỏ cho ngựa, không ngừng chuyển chở, chất đầy dưới cây, lại đem người đi theo thường không quá mười người. Quận liền đường đi, các tân khách đi qua, nếu không theo phép chung thì không được cấp phát; nếu là người quen cũ thì cho, tự dẫn vào nhà. Khang mới được bái quan, mọi người dẫu biết Khang có chí khí, nhưng cho rằng chưa từng làm chức mục thú, e rằng không trổ được tài năng vậy. Nhưng tài năng công tích trị dân lại được như thế, quan dân đều khen ngợi. Cuối năm Gia Bình, từ chức Bột Hải Thái thú được gọi về làm Trung thư lệnh, sau lại chuyển làm Trung thư giám.

vì bệnh mà bỏ chức.

Đỗ thị Tân thư chép: Thứ bèn về kinh sư, lập một cái lũy bên suối ở huyện Nghi Dương, nhân đó đắp thêm cao, người lớn nhỏ đều ở đấy. Vào lúc Minh Đế băng, nhiều người vì Thứ mà nói giúp.

Rời nhà làm Hà Đông Thái thú, hơn một năm, chuyển làm Hoài Bắc Đô đốc Hộ quân, lại vì bệnh mà bỏ. Thứ ở đấy, làm việc sơ qua mà thôi, gieo rắc ân huệ, rất được lòng trăm họ vui mừng, nhưng không bằng Kì. Vụt chốc, bái làm Ngự sử Trung thừa. Thứ tại triều đình, vì không được hòa hợp với người thời ấy, cho nên thường làm quan ở ngoài. Lại ra làm U Châu Thứ sử, thêm chức Kiến uy Tướng quân, Sứ trì tiết, Hộ Ô Hoàn Hiệu úy. Bấy giờ Chinh bắc Tướng quân Trình Hỉ đóng đồn ở thành Kế, bọn Thượng thư Viên Khản khuyên Thứ rằng: "Trình Giáp Bá(12) làm quan từ thời Tiên đế, chức cao hơn Điền Quốc Nhượng ở Thanh Châu(13). Ngày nay làm việc với túc hạ, cùng đóng đồn ở một thành, nên đối chú ý đối đãi người ấy". Nhưng Thứ không chú ý đến. Đến làm quan chưa được lâu, có thủ lĩnh của người Tiên Ti đi vào mà không qua quan ải, đem mấy chục quân kị đến thẳng phủ châu, người trong phủ châu chém một đứa con nhỏ đi theo của người đó, không dâng biểu tấu lên. Do đó Hỉ kể tội Thứ, giao cho quan Đình úy, đáng tội chết, nhưng vì cha là Kì chăm chỉ làm việc mà chết dưới sông, tha cho làm dân thường, đày đến quận Chương Vũ, bấy giờ là năm Gia Bình thứ nhất. Thứ làm theo ý mình, dẫu trung trinh nhưng không biết phòng họa, rút cuộc dẫn đến nỗi ấy.

Lúc trước, Thứ từ Triệu Quận quay về, người quận Trần Lưu là Nguyễn Vũ cũng từ chức Thanh Hà Thái thú được gọi về, cùng tự bắt sở quan Đình úy, bảo Thứ nói: "Xét thấy ngài có tài giúp được phép vua nhưng lại không chịu cố gắng, có chí làm được quan lớn mà lại không chịu thuận kẻ trên, tài học hiểu được việc xưa nay nhưng ý chẳng chuyên nhất, đấy gọi là có tài ấy mà không dùng được cái tài ấy. Nay nhân lúc nhàn rỗi, nên thử nghĩ sâu xa, lập nên một học thuyết". Ở tại quận Chương Vũ, bèn chép sách Thể luận có tám chương.

Đỗ thị Tân thư chép: Cho rằng phép lớn của người ta, chẳng gì lớn bằng đạo vua tôi; gốc rễ của việc lập thân, chẳng gì lớn bằng biết ăn nói và tu đức; giúp vua trị dân, chẳng gì bằng vâng phép đúng; trừ nạn bỏ hại, chẳng gì hay bằng dùng binh. Lễ là sao? Lễ là thể diện của vạn vật, nếu vạn vật đều có được thể diện thì không gì là không hay, cho nên gọi tên sách là Thể luận. Lại chép một thiên Hưng tính luận, đại khái là giúp cho thân mình vậy.

Năm thứ tư, chết ở chỗ mà mình bị đày.

Năm Cam Lộ thứ hai, người quận Hà Đông là Nhạc Tường đã hơn chín mươi tuổi, dâng thư khen công tích của Kì, triều đình cảm kích, hạ chiếu phong con Thứ là Dự làm Phong Lạc Đình Hầu, thực ấp trăm hộ.

Ngụy lược chép: Nhạc Tường tự Văn Tái. Thủa trẻ ham học. Đầu năm Kiến An, Tường nghe nói Công xa Tư mã lệnh người Nam Quận là Tạ Cai giỏi đọc sách Tả thị truyện, bèn đi bộ từ quận Nam Dương đến gặp Cai học qua các điều cốt yếu, ngày nay có đến bảy mươi hai việc trong sách Tả thị Nhạc thị là do Tường soạn vậy. Học hỏi xong lại về quê cũ. Bấy giờ Đỗ Kì làm Thái thú, cũng rất ham học, cho Tường làm quan Văn học Tế tửu, sai đi giảng dạy, do đó nghiệp học của quận Hà Đông nổi rõ. Đến giữa năm Hoàng Sơ, gọi về bái làm Bác sĩ. Bấy giờ mới dựng nhà Thái học, có hơn mười vị Bác sĩ, phần nhiều tài học thấp kém, lại không thành thạo, không quen giảng giải, dẫn vào cho có người mà thôi. Riêng có Tường thạo cả các môn, có người khó dạy hoặc không dạy được nhưng Tường không tỏ vẻ chán ghét, lấy gậy vẽ trên đất, giảng rõ cho họ, đến nỗi quên ăn quên ngủ, do đó được nổi danh khắp xa gần. Tường học tinh thông, lại giỏi suy xét tính đếm, riêng được nhận lệnh cùng quan Thái sử chế định lịch pháp. Giữa năm Thái Hòa, chuyển bái làm Kị Đô úy. Tường học giỏi nhưng ít tài trị dân, cho nên qua ba đời vua đều không ra làm quan mục thú. Đến giữa năm Chính Thủy, vì tuổi già mà nghỉ về ở nhà, họ hàng trong nước theo về học trò có đến mấy nghìn người.

Các sớ biểu tấu nghị biện bác của Thứ đều đáng xem, có chọn các việc cần thiết với đời chép vào trong truyện(14).

Đỗ thị Tân thư chép: Em Thứ là Lí, tự Vụ Trọng. Thủa nhỏ mà xem học tinh thông, Kì lấy làm lạ, cho nên đặt tên là Lí, được hai mươi mốt tuổi thì chết. Em là Khoan, tự Vụ Thúc, trong sạch tĩnh lặng, thông minh lại ưa việc xưa. Vì là con nhà danh thần, thủa nhỏ lớn lên ở kinh sư, nhưng dốc chí học rộng, hơn hẳn người đời, có ý muốn xét rõ các việc huyền bí, do đó mà nổi danh, nhiều kẻ sĩ làm quan đến giao kết. Cử Hiếu liêm, bái làm Lang trung, được bốn mươi hai tuổi thì chết. Với ý nghĩa của kinh truyện, đều chép bài biện bác, nhưng chép soạn chưa xong, chỉ có phần chú giải san định Lễ kí và Xuân thu Tả thị truyện đã xong, đến nay còn truyền cho đời. Dự tự Nguyên Khải, là con rể của Tư Mã Tuyên Vương. Tấn thư của Vương Ẩn khen Dự có mưu trí sâu rộng, giỏi ở việc trị loạn, thường nói: "Người tu đức thì không ai theo kịp, người mong lập công lập danh chỉ là thứ sau vậy". Xem qua các sách, nói rằng nghĩa trong sách Công dương truyện, Cốc lương truyện chỉ là lời biện bác dối trá. Lại cho rằng nhà Nho đời trước đã chưa nghiên cứu rõ ý Tả Khâu Minh trong Tả thị truyện, lại làm cho hai truyện thêm rối. Lại thêm bớt lời lẽ, chép lời chú giải Xuân thu Tả thị truyện, lại xét qua các nhà, gọi tên sách là Thích liệt. Lại chép sách Minh hội đồ, Xuân thu trường lịch, tạo thành một phái học riêng, đến lúc già mời xong. Thượng thư lang Chí Ngu rất coi trọng phái học ấy, nói: "Tả Khâu Minh vốn chép truyện thời Xuân thu, nhưng sách Tả truyện bèn tự được lưu truyền riêng biệt; Thích liệt vốn là truyện tự đặt, nhưng ý mới mẻ sánh được với Tả truyện, cho nên cũng được lưu truyền riêng biệt". Dự có công lớn với nhà Tấn, làm đến chức Chinh nam Đại tướng quân, Khai phủ, phong Đương Dương Hầu, thực ấp tám nghìn hộ. Con là Tích, tự Thế Hỗ, làm Thượng thư Tả thừa. Tấn chư công tán chép: Hỗ có tài năng. Anh họ Dự là Bân, tự Thế Tương, cũng có tài năng, làm Hoàng môn lang, bị Triệu Vương là Luân giết oan. Con Hỗ là Nghệ, tự Hồng Trị. Thủa trẻ có tiếng tăm, làm Đan Dương Thừa, chết sớm. Nguyễn Vũ cũng là người có tài năng rộng lớn vậy. Xét Nguyễn thị phả chép: Cha Vũ là Kham, tự Sĩ Tín, được mời gọi nhưng chẳng đến, chép sách Tam lễ đồ truyền cho đời.

Đỗ thị Tân thư chép: Vũ tự Văn Nghiệp, rộng rãi thông tuệ, là kẻ sĩ nhã nhặn, chỉ làm đến Thanh Hà Thái thú. Em Vũ là Bỉnh, tự Thúc Văn, làm Hà Nam Doãn. Tinh thông thuật chữa bệnh, chép một sách về thuốc. Con Bỉnh là Thản, tự Hoằng Thư, thời nhà Tấn làm Thái tử Thiếu bảo, Bình đông Tướng quân. Em Thản là Kha, tự Sĩ Độ. Duyện Châu kí của Tuân Xước chép: Thản ra làm mục thú, lúc chết, anh thứ đáng được thay tước, nhưng cha ưa Kha hơn, nói lời truyền cho, bèn nhận tước phong. Bấy giờ còn nhỏ bé, không thể từ chối, đến lúc lớn lên mới hối tiếc, bèn buộc khăn mà ở nhà, sau đó có ra làm quan nhưng chưa từng cởi khăn vậy. Tính thật thà nhã nhặn, ưa lễ nghĩa không làm trái, dốc ý đọc kinh truyện, nổi tiếng học rộng. Chọn làm Bộc Dương Vương Văn học, chuyển làm Lĩnh quân Trưởng sử, chết ở sở quan. Bấy giờ Vương Diễn làm Lĩnh quân, khóc Kha rất thảm thiết.

Chú thích:
(1) Ngự sử Đại phu Đỗ Diên Niên thời nhà Hán: chỉ Đỗ Diên Niên tự Ấu Công, người quận Nam Dương, thời Chiêu Đế nhà Hán làm Ngự sử Đại phu. Tính khoan hòa, cẩn thận.
(2) Miền Hào, Mẫn: miền giữa chỗ có núi Hào và đầm Mẫn.
(3) Giặc Bạch kị: chỉ tướng giặc ở núi Hắc là Trương Bạch Kị.
(4) Đại quân đến: chỉ đại quân của Hạ Hầu Đôn đến đánh.
(5) Hà Đông Thái thú Đỗ Kì, Khổng Tử từng nói rằng: 'Đối với vua Vũ, ta chẳng có gì bàn nữa vậy'.: ý nói công lao của Đỗ Kì đã rõ không có gì bàn nữa như vua Vũ thời xưa có công trị thủy vậy.
(6) Thần Tư mệnh: Tư mệnh, theo truyền thuyết xưa là thần coi việc sống hay chết của con người.
(7) Tiết: Tiết là bầy tôi của vua Thuấn, từng giúp Vũ trị thủy có công, được phong ở ấp Thương, là tổ tiên của nhà Thương. Minh là cháu đời thứ sáu của Tiết.
(8) Khí: Khí còn gọi là Tắc hoặc Hậu Tắc, là bầy tôi của vua Thuấn, có công dạy dân trồng trọt, được phong ở ấp Thai, là tổ tiên của nhà Chu.
(9) Hiếu Ý: chỉ Lí Khôi tự Hiếu Ý.
(10) Quân Mưu: chỉ Quách Trí tự Quân Mưu.
(11) Quan Thứ sử thời xưa đã vâng theo sáu điều: thời Vũ Đế nhà Hán, lập mười ba châu, mỗi châu đặt một quan Thứ sử để trông coi, hạ chiếu kể sáu điều rằng: "Điều một, đối với cường hào quý tộc mà giữ ruộng đất trái phép, lấy mạnh hiếp yếu, nên lấy đông chế ít. Điều hai, đối với quan lại có bổng hai nghìn thạch (chỉ quan Thái thú đứng đầu quận) không vâng chiếu lệnh, nên theo phép chế, trị tội kẻ xén công lợi thu riêng, dựa vào chiếu lệnh mà tìm lợi, xâm lấn trăm họ, tụ tập làm việc xấu. Điều ba, trị tội quan lại có bổng hai nghìn thạch mà không xét rõ hình án, tự tiện giết người, giận thì dùng hình, vui thì ban thưởng, phiền nhiễu hà khắc, ép bức dân chúng, bị trăm họ ghét bỏ, núi lở đá vỡ, tỏ điềm ngoa xấu. Điều bốn, trị tội quan lại có bổng hai nghìn thạch mà chọn lựa không công bằng, ưa kẻ a dua, bỏ hiền sủng ác. Điều năm, trị tội con em của quan lại có bổng hai nghìn thạch cậy dựa quyền thế, xin làm việc riêng. Điều sáu, trị tội quan lại có bổng hai nghìn thạch mà trái việc công, hùa theo cường hào, qua lại hối lộ, tổn hại phép lệnh".
(12) Trình Giáp Bá: chỉ Trình Hỉ tự Giáp Bá.
(13) Điền Quốc Nhượng ở Thanh Châu: chỉ Điền Dự tự Quốc Nhượng, bấy giờ trông coi các quân ở Thanh Châu.
(14) Chọn các việc cần thiết với đời chép vào trong truyện: trong truyện có chép hai bài sớ của Đỗ Thứ, nhưng người dịch lược bỏ không dịch.

Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.